TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 383/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 398/2020/ TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 430/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2020 đối với:
Bị cáo: N.Q.T, sinh năm 19… tại thành phố Hà Nội. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số …, phố Đ, phường L, quận H, thành phố Hà Nội; nơi ở: Số …, ngách …, ngõ …, phố T, phường T, quận H, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông N.V.C (đã chết) và bà V.T.L (đã chết); gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ ba; có vợ là T.T.B và có 02 con (con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 1998); tiền án: Không; tiền sự: Ngày 26/3/2020, bị Công an phường B, quận H, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy; nhân thân: Năm 1979, đi cơ sở giáo dục; Năm 2000, đi cai nghiện bắt buộc 06 tháng; Năm 2004, đi cai nghiện bắt buộc 24 tháng; Năm 2009, đi cai nghiện bắt buộc 48 tháng; bị bắt quả tang ngày 07/10/2020, tạm giữ ngày 08/10/2020, tạm giam từ ngày 17/10/2020 ; danh chỉ bản số 485, lập ngày 08/10/2020 tại Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 07/10/2020, N.Q.T đi bộ từ nhà ra khu vực chợ M, phố B, phường T, quận H, thành phố Hà Nội để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy heroine với giá 100.000 đồng. Sau khi mua, T cất ma túy vào túi quần sau bên phải đang mặc rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến khu vực trước cửa nhà số …, phố B, phường B, quận H, thành phố Hà Nội, T bị tổ công tác Công an phường B kiểm tra. Quá trình kiểm tra, T tự giác giao nộp số ma túy trên. Tổ công tác đã niêm phong tang vật và đưa T về trụ sở để làm rõ.
Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hai Bà Trưng đã ra quyết định trưng cầu giám định vật chứng nghi là ma túy thu giữ của N.Q.T. Tại Kết luận giám định số 8851/KLGĐ-PC09 ngày 13/10/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,122 gam”.
Tại Cơ quan Công an, N.Q.T khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Cơ quan Công an đã dẫn giải N.Q.T đi xác định địa điểm mua ma túy và người đàn ông đã bán ma túy cho T. Kết quả, T xác định được địa điểm mua ma túy, nhưng không xác định được người đàn ông bán ma túy cho T, nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý.
Tại Cáo trạng số 384/CT-VKSHBT-HS ngày 30/11/2020, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố N.Q.T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo T khai đã thực hiện hành vi như Cáo trạng truy tố, xin được giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng tham gia phiên tòa sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo N.Q.T mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,122 gam Heroine.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo N.Q.T không khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 20 phút ngày 07/10/2020, tại khu vực trước cửa số nhà …, phố B, phường B, quận H, thành phố Hà Nội, bị cáo N.Q.T có hành vi tàng trữ trái phép 0,122 gam ma túy loại Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý, kiểm soát của Nhà nước đối với chất ma túy. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố và kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo N.Q.T thành khẩn khai báo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo N.Q.T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về nhân thân: Bị cáo N.Q.T có nhân thân xấu, gồm 04 tiền sự tính đến ngày phạm tội đã đủ thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính và 01 tiền sự tính đến ngày phạm tội chưa đủ thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính, thể hiện bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật kém, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, nhưng không tu dưỡng, rèn luyện, mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.
[6] Về quyết định hình phạt: Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy thì “bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo N.Q.T, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
[7] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, do bị cáo N.Q.T không có nghề nghiệp, tài sản, nên Tòa án không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,122 gam Heroine thu giữ của bị cáo N.Q.T là vật cấm tàng trữ, nên phải tịch thu tiêu hủy.
[9] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo N.Q.T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[10] Đối với người đàn ông bán ma túy cho N.Q.T: T khai không biết tên, địa chỉ, Cơ quan Công an đã tổ chức truy tìm, nhưng không xác định được, nên không có căn cứ xử lý là đúng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo N.Q.T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt N.Q.T 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt quả tang 07/10/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với N.Q.T.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) bì niêm phong, bên trong có 0,122 gam ma túy loại Heroine, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo N.Q.T. Vật chứng đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng số 55/21 ngày 30/11/2020.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo N.Q.T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo N.Q.T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 383/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 383/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về