Bản án 382/2020/HS-PT ngày 17/12/2020 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 382/2020/HS-PT NGÀY 17/12/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Trong các ngày 10 và 17 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 343/2020/TLPT-HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Tô M (Tuấn) và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Tô M, sinh năm 1989 tại tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú (HKTT): Khóm Thượng X, thị trấn Thường Thới T, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Lơ xe; trình độ học vấn: 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Tô H, sinh năm 1957 (sống) và bà Phan Thị H1, sinh năm 1959 (chết); có vợ nhưng chưa có con; tiền sự, tiền án: Không; nhân thân: Ngày 05-7-2016, Tô M bị Tòa án nhân dân huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 176/2016/HSST, chấp hành hình phạt xong ngày 21-01-2017; tạm giữ, tạm giam: Không. Bị cáo đang tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

2. Phan Minh T, sinh năm 1974 tại tỉnh Tiền G; nơi cư trú (HKTT): Ấp T, xã Hòa H, huyện Cái B, tỉnh Tiền G1; nghề nghiệp: Tài xế xe; trình độ học vấn: 09/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Phan Minh S, sinh năm 1943 (sống) và bà Hồ Thị E, sinh năm 1951 (sống); có vợ và có 01 con; tiền sự: Ngày 02-7-2018, Phan Minh T1 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp ra Quyết định số 729/QĐ-XPVPHC xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Buôn bán, vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu” với mức hình phạt chính là 85.000.000 đồng và mức hình phạt bổ sung là 280.000.000đồng (Chưa nộp tiền phạt); tiền án: Không; nhân thân: Ngày 04-01-2017, bị Ủy ban nhân dân thị xã Hồng N, tỉnh Đồng Tháp ra Quyết định số 03/QĐ-XPHC xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Mua bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu” với mức hình phạt chính là 40.000.000 đồng (Chưa nộp tiền phạt); tạm giữ, tạm giam: Không. Bị cáo đang tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Tấn T3 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Văn T4 không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02 giờ 30 phút, ngày 14 tháng 4 năm 2020, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Hình sự, Kinh tế, Ma túy Công an thị xã Hồng N phối hợp với Công an phường An T5, thị xã Hồng N tiến hành tuần tra phòng chống tội phạm. Khi tuần tra đến đoạn đường Bùi Văn C1 thuộc khóm X, phường An T5, thị xã Hồng N, tỉnh Đồng Tháp phát hiện xe ô tô tải biển kiểm soát 54T-49XX đang đậu trên đường do Nguyễn Tấn T6 điều khiển có dấu hiệu nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện bên trong thùng kín phía sau xe có 2.500 (hai ngàn năm trăm) bao thuốc lá điếu nhập lậu, gồm 2.000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu HERO và 500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu JET, nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.

Trong quá trình điều tra đã chứng minh, do muốn có lợi nhuận từ việc mua bán thuốc lá điếu nhập lậu để chia nhau tiêu xài nên bị cáo Tô M chủ động gợi ý để bị cáo Phan Minh T1 cùng thu mua 2.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu và bị cáo Nguyễn Tấn T là người vận chuyển số thuốc lá điếu nhập lậu này đến Thành phố Hồ Chí Minh bán cho người tên H3 mà bị cáo Tô M đã liên hệ trước đó, trong đó: 1.300 (một ngàn ba trăm) bao, gồm các nhãn hiệu HERO và JET là của bị cáo Tô M mua của một người tên Hưng ở huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp và 1.200 (một ngàn hai trăm) bao nhãn hiệu HERO là của bị cáo Phan Minh T1 mua của một người tên H4 ở huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp cùng mang đến địa điểm đã bị bắt quả tang để Nguyễn Tấn T3 vận chuyển đi Thành phố Hồ Chí Minh.

Sau khi bị khởi tố, các bị cáo Tô M và Nguyễn Tấn T3 đã thành khẩn khai báo trước Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Riêng đối với bị cáo Phan Minh T1, trước khi kết thúc điều tra bị cáo Phan Minh T1 không thừa nhận hành vi phạm tội như trên. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra trước đó, bị cáo Phan Minh T1 đã thừa nhận cùng với bị cáo Tô M thu mua số lượng thuốc lá điếu nhập lậu trên để Nguyễn Tấn T3 vận chuyển đến Thành phố Hồ Chí Minh bán kiếm lợi nhuận, lời khai của bị cáo Phan Minh T1 được thể hiện tại: Tờ tự khai, Biên bản đối chất, các Biên bản ghi lời khai và Biên bản hỏi cung bị cáo T1.

Vật chứng đã thu giữ gồm: 2.000 (hai ngàn) bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO; 500 (năm trăm) bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A9S, màu đen, đã qua sử dụng; 01 (một) xe ô tô tải mang biển kiểm soát 54T - 4952, màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) giấy đăng ký xe ô tô biển số 54T - 4952; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Tấn T3; 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Tấn T3; 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định phương tiện xe ô tô biển số 54T - 4952, cấp ngày 03-4-2020 do Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới thuộc Sở Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấp; 01 (một) điện thoại di động, hiệu Nokia 105, vỏ màu đen, bên trong có sim, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động.

Việc xử lý vật chứng vụ án của Cơ quan điều tra: Quá trình điều tra, xác định các vật chứng đã thu giữ nêu trên có liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã nhập vào Kho vật chứng Công an thị xã Hồng N theo quy định nhằm phục vụ cho công tác điều tra, truy tố và xét xử.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2020/HS-ST ngày 25-9-2020 của Tòa án nhân dân thị xã Hồng N, tỉnh Đồng Tháp đã quyết định:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Tô M phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Tô M 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phan Minh T1 phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Phan Minh T1 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn T3 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt, nhưng được trừ vào các ngày tạm giữ, tạm giam (Từ ngày 14-4-2020 đến ngày 01-5-2020).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và nêu quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 05 tháng 10 năm 2020, bị cáo Tô M có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Ngày 08 tháng 10 năm 2020, bị cáo Phan Minh T1 có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Tô M, Phan Minh T1 thừa nhận thực hiện hành vi mua thuốc lá điếu nhập lậu để bán lại kiếm tiền, khi tập trung thuốc lá tại địa điểm ở đoạn đường Bùi Văn C1 thuộc khóm 1, phường An T5, thị xã Hồng N, tỉnh Đồng Tháp để cho Nguyễn Tấn T3 chở đi Thành phố Hồ Chí Minh bán thì bị Công an bắt quả tang vào khoảng 02 giờ 30 phút ngày 14-4-2020 như nội dung Bản án sơ thẩm đã nêu. Các bị cáo thừa nhận Bản án sơ thẩm kết án các bị cáo phạm tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự là có căn cứ, nhưng cho rằng hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử là nặng nên kháng cáo xin được hưởng án treo. Bị cáo Tô M nêu lý do kháng cáo là vì hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, gia đình bị cáo có công với cách mạng, bị cáo từng đi bộ đội, nguyên nhân phạm tội là vì thất nghiệp do ảnh hưởng của dịch Covid 19. Bị cáo Phan Minh T1 không xuất trình được các lý do kháng cáo xin hưởng án treo, bị cáo T1 tự nguyện rút đơn kháng cáo tại phiên tòa phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu quan điểm giải quyết vụ án cho rằng hành vi của các bị cáo Tô M, Phan Minh T1 bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, áp dụng đầy đủ, đúng quy định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo. Do đó, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo, bị cáo Tô M có nêu ra các lý do, tình tiết giảm nhẹ để chứng minh yêu cầu kháng cáo, nhưng nhận thấy các lý do, tình tiết giảm nhẹ này Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét và không có căn cứ để chấp nhận, nên đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự để giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo Tô M, riêng bị cáo Phan Minh T1 đã tự nguyện rút đơn kháng cáo tại phiên tòa phúc thẩm, nên đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo T1.

Trong phần tranh luận, các bị cáo không tranh luận. Tại lời nói sau cùng, bị cáo Tô M xin Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Do muốn có lợi nhuận từ việc buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu để chia nhau tiêu xài nên bị cáo Tô M chủ động gợi ý để bị cáo Phan Minh T1 cùng thu mua 2.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu và giao Nguyễn Tấn T3 vận chuyển số thuốc lá điếu nhập lậu này đến Thành phố Hồ Chí Minh để bán cho người tên Huy mà bị cáo Tô M đã liên hệ trước đó để kiếm tiền, trong đó: 1.300 (một ngàn ba trăm) bao, gồm các nhãn hiệu HERO và JET là của bị cáo Tô M mua của một người tên H2 ở huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp và 1.200 (một ngàn hai trăm) bao nhãn hiệu HERO là của bị cáo Phan Minh T1 mua của một người tên Hiền ở huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp cùng mang đến địa điểm đã bị bắt quả tang để Nguyễn Tấn T3 vận chuyển đi Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Xét thấy thuốc lá điếu ngoại nhập lậu là hàng cấm, nên việc buôn bán mặt hàng này là hành vi trái pháp luật. Vì vậy hành vi của các bị cáo Tô M, Phan Minh T1 bị kết án về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự theo Bản án số 47/2020/HS-ST ngày 25-9-2020 của Tòa án nhân dân thị xã Hồng N, tỉnh Đồng là có căn cứ. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh thuốc lá, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, chỉ vì hám lợi mà các bị cáo coi thường pháp luật, nên hành vi của các bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phan Minh T1 tự nguyện rút đơn kháng cáo, nên căn cứ quy định tại Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo T1, Bản án sơ thẩm đã tuyên về hình phạt đối với bị cáo T1 có hiệu lực pháp luật kể từ khi đình chỉ xét xử phúc thẩm. Đối với kháng cáo của bị cáo Tô M, Hội đồng xét xử xét thấy: Các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo nêu để làm căn cứ kháng cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét, còn lý do hoàn cảnh gia đình khó khăn, phạm tội do không có việc làm vì dịch Covid 19 không phải là điều kiện để giảm nhẹ hình phạt. Hơn nữa, bị cáo có nhân thân không tốt, tuy bị cáo đã được xóa án tích nhưng thể hiện ý thức chấp hành pháp luật kém và xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo Tô M gây ra, thì hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp. Vì vậy không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô M, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Tô M.

[4] Xét thấy phát biểu về quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm là có căn cứ chấp nhận.

[5] Do bị cáo Phan Minh T1 rút kháng cáo tại phiên tòa phúc thẩm nên bị cáo T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Do kháng cáo của bị cáo Tô M không được chấp nhận nên bị cáo Tô M phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô M (Tuấn).

Giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2020/HS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã Hồng N, tỉnh Đồng Tháp về phần hình phạt đối với bị cáo Tô M.

Tuyên bố bị cáo Tô M phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Tô M 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

2. Căn cứ Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Phan Minh T1. Bản án sơ thẩm số 47/2020/HS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã Hồng N, tỉnh Đồng Tháp về phần hình phạt đối với bị cáo Phan Minh T1 có hiệu lực pháp luật kể từ ngày đình chỉ xét xử phúc thẩm.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và các điểm b, g khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-02-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Tô M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bị cáo Phan Minh T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 382/2020/HS-PT ngày 17/12/2020 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:382/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về