Bản án 38/2020/HS-ST ngày 02/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 38/2020/HS-ST NGÀY 02/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 42/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

1. Bùi Thị K, tên gọi khác: Không, sinh ngày 20/11/1989 tại xã Y, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm M, xã Y, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; giới tính: nữ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn M và bà Quách Thị T; Chồng: Chưa có; Con: 01 con sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/7/2020 đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Duy C, sinh năm 1981(Vắng mặt). Địa chỉ: xóm Ao H, xã Y, huyện Y, tỉnh Hòa Bình.

- Ông Bùi Văn O, sinh năm 1963. (Vắng mặt).

Địa chỉ: xóm T, xã Y, huyện Y, tỉnh Hòa Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 40 phút, ngày 27/7/2020 do nghiện ma túy nên Bùi Thị K một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29P2-40137 từ nhà tại xóm M, xã Y, huyện Y, tỉnh Hòa Bình xuống khu vực bến xe Nho Quan thuộc thị trấn Nho Quan, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, K gặp một người đàn ông không rõ lai lịch ngồi trên xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu sơn đen, có đặc điểm khoảng 40 tuổi, cao khoảng 1m70, dáng người cao to, đầu đội mũ bảo hiểm, mặc áo dài tay màu xanh, quần dài màu đen. K hỏi “anh ơi có hàng không” (ý K hỏi người đàn ông có bán ma túy không) người này trả lời “có, muốn nhiều không? loại nào”, K nói “ anh để cho em một triệu hai trăm nghìn đồng trắng” người đàn ông này đồng ý, sau khi K đưa tiền thì người đàn ông này nói “đợi một tý”và điều khiển xe mô tô đi khoảng 05 phút thì quay lại đưa cho K một gói giấy màu bạc bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục là ma túy, loại Heroine. Sau khi mua được ma túy K cho vào túi quần phía trước bên phải của mình rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29P2-40137 đi về nhà. Khi về đến nhà K dùng móng tay của mình chia nhỏ gói ma túy vừa mua được thành 03 gói nhỏ, K cất 02 gói nhỏ trên nóc tủ đựng quần áo trong phòng ngủ, 01 gói K cho vào túi quần phía trước bên phải của mình rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29P2-40137 đi chơi. Khi đi đến địa phận xóm Tân Thịnh, xã Y, huyện Y, tỉnh Hòa Bình thì bị tổ công tác Công an huyện Y phối hợp với Công an xã Y, huyện Y bắt quả tang K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội, biên bản tạm giữ niêm phong vật chứng theo quy định.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Bùi Thị K Cơ quan chức năng thu giữ thêm 01 gói giấy màu bạc và 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục là ma túy, loại Heroine.

Tại bản kết luận giám định số: 219/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 31/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: “Chất bột dạng cục màu trắng trong 02 phong bì niêm phong ký hiệu số 01 và số 02ghi tên Bùi Thị K gửi giám định có tổng khối lượng 0,79g (Không phẩy bảy mươi chín gam) là ma túy, loại Heroin (Heroine nằm trong danh mục I, số thứ tự 09, Nghị định số 73/2018/NĐ- CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ)”.

Tại bản cáo trạng số: 39/CT-VKS-YT ngày 04/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Hòa Bình đã truy tố Bùi Thị K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Thc hành công tố tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Hòa Bình sau khi xem xét, đánh giá toàn diện nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trình bày quan điểm và luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự phạt bị cáo Bùi Thị K từ 24 ( Hai mươi bốn ) tháng tù đến 30 ( Ba mươi) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng đối với bị cáo Bùi Thị K.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: 0,42g (Không phẩy bốn mươi hai gam) mẫu ma túy, lại Heroine cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định.

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SHMODE màu sơn đen, có gắn một chiếc gương chiếu hậu bên trái, biển kiểm soát 29P2-40137, xe cũ đã qua sử dụng bị cáo khai nhận là xe của bị cáo nhưng không chứng minh được nguồn gốc xe, cơ quan điều tra cũng đã tiến hành xác minh tuy nhiên chưa có căn cứ để xác định chiếc xe mô tô trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo, do vậy HĐXX chấp nhận tiếp tục tạm giữ tại kho vật chứng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y để tiếp tục điều tra xác minh có căn cứ sẽ xử lý sau.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Bùi Thị K nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố.

Bị cáo Bùi Thị K nói lời sau cùng và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm trở thành người tốt có ích cho xã hội.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã triệu tập hợp lệ người làm chứng, nhưng người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử vẫn xét xử vụ án theo qui định của pháp luật.

[2] Nội dung vụ án: Vào khoảng 19 giờ 40 phút, ngày 27/7/2020 do nghiện ma túy nên Bùi Thị K một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29P2-40137 từ nhà xuống khu vực bến xe Nho Quan thuộc thị trấn Nho Quan, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bìnhđể tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, K gặp một người đàn ông không rõ lai lịch ngồi trên xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu sơn đen, có đặc điểm khoảng 40 tuổi, cao khoảng 1m70, dáng người cao to,đầu đội mũ bảo hiểm, mặc áo dài tay màu xanh, quần dài màu đen. K hỏi mua ma túy và người đàn ông này đồng ý, sau khi K đưa 1.200.000 đồng thì người đàn ông này điều khiển xe mô tô đi khoảng 05 phút thì quay lại đưa cho K một gói giấy màu bạc bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục là ma túy, loại Heroine. Sau khi mua được ma túy K cho vào túi quần phía trước bên phải của mình rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29P2- 40137 đi về nhà. Khi về đến nhà K dùng móng tay của mình chia nhỏ gói ma túy vừa mua được thành 03 gói nhỏ, K cất 02 gói nhỏ trên nóc tủ đựng quần áo trong phòng ngủ, 01 gói K cho vào túi quần phía trước bên phải của mình rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29P2-40137 đi chơi. Khi đi đến địa phận xóm Tân Thịnh, xã Y, huyện Y, tỉnh Hòa Bình thì bị tổ công tác Công an huyện Y phối hợp với Công an xã Y, huyện Y bắt quả tang K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội, biên bản tạm giữ niêm phong vật chứng theo quy định.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Bùi Thị K có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và những tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Bùi Thị K, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội danh và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

nh vi nêu trên của Bùi Thị K là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội, gia tăng các tệ nạn xã hội. Làm suy giảm sức lao động sản xuất, tăng các chi phí cho ngân sách Nhà nước trong các hoạt động ngăn ngừa, khắc phục, giải quyết các hậu quả do ma túy đem lại.Lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Bùi Thị K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người dân tộc Mường đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về nhân thân: Năm 2008 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội xét xử 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã chấp hành xong bản án và đã được xóa án tích.

[4] Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp. Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có đủ điều kiện cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do không có thu nhập ổn định, bản thân có tiền sử nghiện ma túy hoàn cảnh gia đình khó khăn, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu, tiêu hủy: 0,42g (Không phẩy bốn mươi hai gam) mẫu ma túy, lại Heroine cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định.

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SHMODE màu sơn đen, có gắn một chiếc gương chiếu hậu bên trái, biển kiểm soát 29P2-40137, xe cũ đã qua sử dụng bị cáo khai nhận là xe của bị cáo nhưng không chứng minh được nguồn gốc xe, cơ quan điều tra cũng đã tiến hành xác minh tuy nhiên chưa có căn cứ để xác định chiếc xe mô tô trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo, do vậy HĐXX chấp nhận tiếp tục tạm giữ tại kho vật chứng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y để tiếp tục điều tra xác minh có căn cứ sẽ xử lý sau.

[8] Các vấn đề khác:

Trong vụ án còn có người đàn ông có đặc điểm khoảng 40 tuổi, cao khoảng 1m70, dáng người cao to, đầu đội mũ bảo hiểm, mặc áo dài tay màu xanh, quần dài màu đen bán ma túy cho Bùi Thị K ở khu vực bến xe Nho Quan thuộc thị trấn Nho Quan, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và người đàn ông có đặc điểm khoảng 50 tuổi, cao khoảng 1m60, dáng người gầy, đi xe Wave màu xanh là người trước đây bán ma túy cho Bùi Thị K để sử dụngở xóm phố Dương, xã Ngọc Lương, huyện Y, tỉnh Hòa Bình,Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyên Y đã điều tra xác minh nhưng chưa làm rõ được vì vậy khi nào xác minh đầy đủ, có căn cứ sẽ tiến hành xử lý sau.

[9]Về án phí: Bị cáo Bùi Thị K phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Thị K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Bùi Thị K 24( Hai mươi bốn ) tháng tù. Thời hạn tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 27/7/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy: 0,42g (không phẩy bốn mươi hai) gam mẫu ma túy, lại Heroine cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định.

(Các vật chứng nói trên có đặc điểm mô tả cụ thể tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/11/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y)

4. Án phí: Bị cáo Bùi Thị K phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2020/HS-ST ngày 02/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thủy - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về