Bản án 38/2019/HS-ST ngày 28/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 

BẢN ÁN 38/2019/HS-ST NGÀY 28/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 33/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn D sinh năm 1994, tại thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn 11, xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và bà Lê Thị R; có vợ Nguyễn Thị Quỳnh N và có 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 14 tháng 12 năm 2018 đến ngày 20 tháng 12 năm 2018 chuyển tạm giam; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 15 phút ngày 14 tháng 12 năm 2018, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hải Phòng làm nhiệm vụ tại quốc lộ 10 thuộc địa phận thôn A2 xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng phát hiện Nguyễn Văn D có biểu hiện cất giấu trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra, lực lượng Công an đã thu giữ của D 01 túi nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng, 200.000 đồng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter Gravita màu đỏ BKS 15G1-203.55. Tổ công tác đã đưa D cùng vật chứng về trụ sở Công an xã Kênh Giang lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Tại bản Kết luận giám định số 650/KLGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng thu của D là ma túy, khối lượng 0,3116 gam là loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra D khai: Do nghiện ma túy nên khoảng 13 giờ ngày 14 tháng 12 năm 2018 D điều khiển xe mô tô BKS 15G1-203.55 chở C (không xác định được căn cước, lai lịch) là bạn của D đi mua ma túy đá về sử dụng. Trên đường đi, D đưa cho C 300.000 đồng để mua ma túy. Cả hai đi đến khu vực chân cầu Đá Bạc thuộc địa phận thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. C mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng. D đứng ngay gần đó, khi mua được ma túy C đưa cho D cất giấu vào túi quần phía trước bên trái đang mặc. D chở C về huyện

Thủy Nguyên, sau đó một mình D đến địa phận xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên để tìm nơi sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang.

Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định và 200.000 đồng đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên chờ xử lý.

Tại phiên tòa bị cáo trình bày thống nhất về hành vi như đã nêu trên và khai đối với số tiền 200.000 đồng bị thu giữ bị cáo sẽ dùng để mua ma túy vào ngày hôm sau nếu như không bị bắt.

Ông Kiểm sát viên và bị cáo đồng ý với nội dung Kết luận định giám định, không có ý kiến hay khiếu nại gì.

Bản Cáo trạng số 33/2019/CT-VKS ngày 04 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố Nguyễn Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (BLHS). Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38 và điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù; không phạt tiền bị cáo; áp dụng Điều 47 của BLHS và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định, tịch thu nộp sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng; bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn được sự khoan hồng của pháp luật, được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Ngày ngày 14 tháng 12 năm 2018 bị cáo Nguyễn Văn D đã có hành vi cất giấu 0,3116 gam Methamphetamine trong người để sử dụng. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Với hành vi nêu trên, bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS. Các chứng cứ xác định bị cáo không có tội bị loại trừ.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm pháp luật về phòng chống ma túy, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự và sức khỏe của bản thân. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

[4] Về hình phạt: Với phân tích trên, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và xử phạt bị cáo mức án trên mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp. Tại khoản 5 Điều 249 của BLHS quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành nên không phạt tiền bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng: 01 phong bì niêm phong số ma túy còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 200.000 đồng bị cáo tuy chưa dùng để mua bán ma túy, nhưng có ý thức sẽ để tiếp tục mua ma túy sử dụng trong trường hợp không bị bắt nên cần tịch thu nộp sung quỹ Nhà nước.

[6] Về những vấn đề khác: Vụ án này không có dấu hiệu của việc bỏ lọt tội phạm hoặc hành vi phạm tội mới nên Hội đồng xét xử không phân tích chứng cứ để xem xét việc khởi tố vụ án hay yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự. Đối tượng bán ma túy cho D quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch nên không có cơ sở để điều tra và đối tượng tên C đi mua ma túy cùng D, quá trình điều tra chưa xác định được căn cước, lai lịch nên Cơ quan điều tra tách tra làm rõ xử lý sau là phù hợp pháp luật. Chiếc xe mô tô BKS 15G1-203.55 do bị cáo Nguyễn Văn D đứng tên đăng kí; Cơ quan điều tra đã căn cứ vào lời khai của ông Duyệt và bà Rơi (bố mẹ đẻ của bị cáo) khai nguồn gốc số tiền mua xe là của ông bà, bị cáo chỉ đứng tên hộ; ông D bà R không biết bị cáo dùng xe để đi mua ma túy nên đã trả lại xe cho ông D bà R sử dụng là chưa đủ căn cứ pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong phạm vi và thời hạn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Nguyễn Văn D 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 14/12/2018.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định; tịch thu nộp sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng (chi tiết về vật chứng tại Biên lai thu tiền số 0000795 ngày 21 tháng 3 năm 2019 và Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HS-ST ngày 28/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về