Bản án 38/2019/HS-PT ngày 16/04/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 38/2019/HS-PT NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 16 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 14/2019/TLPT-HS ngày 28 tháng 01 năm 2019 đối với các bị cáo Nguyễn Văn Q và Lâm Văn T. Do có kháng cáo của các bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 126/2018/HS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn Q, sinh năm 1959 tại Bạc Liêu. Nơi cư trú: Số xxx, khóm N, phường N, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu; Nghề nghiệp: Nuôi tôm; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: 05/12; Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1935 (đã chết) và bà Lâm Thị L, sinh năm 1939; Có vợ là Ngô Kim C, sinh năm 1959 và 04 người con, lớn nhất sinh năm 1979, nhỏ nhất sinh năm 1985; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 05/4/2017, bị Ủy ban nhân dân phường N, thành phố B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ”, chưa chấp hành đóng phạt; Nhân thân:

- Ngày 27/08/2007, bị Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bạc Liêu xét xử và xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”, đã được xóa án tích.

- Ngày 09/3/2012, bị Công an thành phố B ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 26/QĐ-XPHC về hành vi “Đánh bạc”, đã đóng phạt xong.

Bị cáo bị khởi tố ngày 17/9/2018 và cho tại ngoại điều tra, (có mặt).

2. Họ và tên: Lâm Văn T (Tên gọi khác: C), sinh năm 1973 tại Bạc Liêu. Nơi cư trú: Số xxx, khóm N, phường N, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: 06/12; Nghề nghiệp: Nuôi tôm; Con ông Lâm Văn T1, sinh năm 1947 và bà Quản Thị L, sinh năm 1954; Có vợ là Trương Thị Đ, sinh năm 1978 và 03 người con, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị khởi tố ngày 17/9/2018 và cho tại ngoại điều tra, (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo T: Ông Nguyễn Duy S, là Luật sư của Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn K, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bạc Liêu, (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Q:

+ Ông Trần Vân L, là Luật sư của Văn phòng Luật sư Trần Vân L, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, Luật sư L có đơn xin vắng mặt và gửi bài bào chữa cho bị cáo Q.

+ Ông Trần Hoàng Hải Phong, là Luật sư của Văn phòng Luật sư Trần

Vân Linh, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 14/7/2018, bị cáo Nguyễn Văn Q cùng La Tú A, Hồ Minh Q và Nguyễn Văn B đến quán cà phê T, tại số xxx, đường B, khóm N, phường N, thành phố B do bà Dương Thúy D làm chủ quán để xem trận bóng đá tranh hạng ba giữa đội tuyển Anh và đội tuyển Bỉ, giải vô địch bóng đá thế giới năm 2018, diễn ra lúc 21 giờ cùng ngày. Khi kết thúc hiệp một, bị cáo Q cùng A, Minh Q và B rủ nhau đánh bài và thỏa thuận nếu người nào thua chót hai ván liền sẽ trả tiền nước bốn ly nước sinh tố, khi đang chơi ván bài thứ hai thì bị Công an thành phố B kết hợp Công an phường N, thành phố B bắt quả tang.

Tang vật thu giữ gồm: Một bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng; dưới nền gạch cách nơi các đối tượng ngồi khoảng 02 mét là số tiền 1.000.000 đồng. Qua kiểm tra, tạm giữ trên người các đối tượng gồm:

- Bị cáo Nguyễn Văn Q: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 130, màu đen, loại phím bấm và số tiền 282.000 đồng;

- La Tú A: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu trắng, loại phím bấm và số tiền 11.770.000 đồng;

- Nguyễn Văn B: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu xanh, loại phím bấm và số tiền 27.200.000 đồng;

- Hồ Minh Q: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, loại phím bấm và số tiền 8.017.000 đồng.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành mời bà Dương Thúy D, ông Lâm Tấn M (chồng bà D) và ông Nguyễn Văn H về làm việc do nghi ngờ có liên quan hành vi đánh bạc. Tạm giữ của bà D một điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu vàng đồng, loại cảm ứng; 01 quyển tập học sinh, bìa màu hồng và tạm giữ của ông H số tiền 24.600.000 đồng.

Ngày 15/7/2018, bị cáo Lâm Văn T (tên thường gọi là C) đến Công an thành phố B đầu thú về việc có hành vi cá độ bóng đá cùng bị cáo Nguyễn Văn Q, đồng thời giao nộp một điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu vàng đồng, loại cảm ứng có gắn số thuê bao 0919.727.747.

Tại biên bản kiểm tra điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 130, màu đen, loại phím bấm của bị cáo Nguyễn Văn Q, tại thư mục tin nhắn đến có ba tin nhắn cá độ bóng đá thắng thua bằng tiền với bị cáo Lâm Văn T (được đánh số 01, 02 và 03) như sau:

- Tin nhắn số 01 tên “C”, có số điện thoại 0919.727.747, nhắn tin đến lúc 07:49:18pm ngày 14/7/2018, nội dung “Bi.2t”.

- Tin nhắn số 02 tên “C”, có số điện thoại 0919.727.747, nhắn tin đến lúc 08:02:37pm ngày 14/7/2018, nội dung “Tong cong 7t”.

- Tin nhắn số 03 tên “C”, có số điện thoại 0919.727.747, nhắn tin đến lúc 08:02:59pm ngày 14/7/2018, nội dung “Bi 7t”.

Kết quả điều tra xác định: Khoảng 19 giờ ngày 14/7/2018, bị cáo Q sử dụng số điện thoại 0918.152.607 gọi vào số 0919.727.747 của bị cáo T hỏi “Tỉ lệ kèo (cá độ) trận Anh và Bỉ thế nào?”, bị cáo T trả lời “Bỉ chấp đồng nửa lựa” rồi tắt máy, tức là khi kết thúc hai hiệp chính, nếu Bỉ thắng thì người chọn đội Bỉ thắng 95% số tiền cá độ; nếu Anh thắng thì người chọn đội Anh thắng 100% số tiền cá độ; nếu hòa nhau thì người chọn đội Bỉ thua 50% số tiền cá độ, người chọn đội Anh thắng 50% số tiền cá độ.

Khoảng 30 phút sau, bị cáo Q gọi cho bị cáo T nói “nằm Bỉ hai triệu cho chú”, bị cáo T trả lời “ừ” và nhắn tin vào số 0918.152.607 của bị cáo Q với nội dung “Bi.2t”, tức là bị cáo Q chọn đội tuyển Bỉ cá độ với bị cáo T chọn đội tuyển Anh, với số tiền 2.000.000 đồng.

Khoảng 20 giờ cùng ngày, bị cáo Q tiếp tục gọi cho bị cáo T nói “nằm Bỉ thêm cho chú năm triệu nữa là bảy triệu”, bị cáo T đồng ý và nhắn tin vào số 0918.152.607 của bị cáo Q với nội dung “Tong cong 7t” “Bi 7t”, tức là bị cáo Q chọn đội tuyển Bỉ cá độ với bị cáo T chọn đội tuyển Anh, với tổng số tiền là 7.000.000 đồng. Theo tỷ lệ bị cáo T và bị cáo Q tự thỏa thuận với nhau thì nếu bị cáo Q thua sẽ đưa 7.000.000 đồng cho bị cáo T, nếu bị cáo T thua thì chỉ phải đưa 6.650.000 đồng cho bị cáo Q. Như vậy, bị cáo Q dùng 7.000.000 đồng còn bị cáo T dùng 6.650.000 đồng để đánh bạc.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bạc Liêu quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Q, Lâm Văn T (C) phạm tội “Đánh bạc. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 06 (sáu) tháng tù. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lâm Văn T (C) 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày các bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28 tháng 11 năm 2018, bị cáo Lâm Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Ngày 10 tháng 12 năm 2018, bị cáo Nguyễn Văn Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Q giữ nguyên nội dung kháng cáo; bị cáo T rút một phần nội dung kháng cáo xin giảm án, bị cáo chỉ xin được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về hình thức: Xét kháng cáo của các bị cáo còn trong thời hạn luật định nên cấp phúc thẩm chấp nhận và đưa ra xét xử là hợp lệ.

Về nội dung: Hành vi cá cược bóng đá được thua bằng tiền của các bị cáo Q và T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nên cần có mức hình phạt nghiêm mới đủ sức răn đe các bị cáo. Khi lượng hình, cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo và xử phạt bị cáo Q mức án 06 tháng tù, bị cáo T mức án 03 tháng tù là phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Nội dung bào chữa của Luật sư L: Thống nhất việc truy tố, xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc”. Tuy nhiên, cần xem xét cho bị cáo là người có trình độ văn hóa thấp, nhận thức pháp luật còn hạn chế, bị cáo đang bị nhiều bệnh như đái tháo đường dạng 2, viêm gan siêu vi B, nang thận, thoái hóa khớp, tăng men gan. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo do tình trạng sức khỏe của bị cáo không đảm bảo; chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xin hưởng án treo của bị cáo.

Phát biểu của Luật sư P: Thống nhất việc truy tố, xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc”. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng sức khỏe của bị cáo không tốt, bị cáo đang bị nhiều bệnh như đái tháo đường dạng 2, viêm gan siêu vi B, nang thận, thoái hóa khớp, tăng men gan. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo do tình trạng sức khỏe của bị cáo không đảm bảo và chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xin hưởng án treo của bị cáo.

Phát biểu của Luật sư S: Tại phiên tòa bị cáo T đã khai nhận rõ hành vi của bị cáo, nên Tòa sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc” là có căn cứ. Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo vì bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đầu thú được quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp giấy xác nhận của địa phương bị cáo là lao động chính trong gia đình; kết quả xét nghiệm và toa thuốc thể hiện vợ bị cáo bị bệnh cao huyết áp vô căn, mẹ bị cáo bị bệnh đột quỵ não cấp. Ngoài ra bị cáo còn con nhỏ (sinh năm 2011), nếu bị cáo phải đi chấp hành hình phạt tù sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoàn cảnh gia đình bị cáo, việc học tập của con bị cáo sẽ bị gián đoạn. Trong vụ án này, bị cáo không phải là người rủ bị cáo Q mà do bị cáo Q rủ bị cáo tham gia cá cược; xét về điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo thì bị cáo đủ điều kiện theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo để xem xét cho bị cáo được hưởng án treo với thời gian thử thách là 01 năm.

Kiểm sát viên có ý kiến đối đáp với các Luật sư: Các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo đã được cấp sơ thẩm áp dụng đầy đủ, tại phiên tòa các bị cáo cung cấp các giấy tờ chứng minh bị cáo T là lao động chính trong gia đình, mẹ và vợ bị cáo bị bệnh; bị cáo Q cung cấp kết quả xét nghiệm bị cáo bị bệnh, đây không phải là tình tiết giảm nhẹ theo qui định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục: Tại phiên tòa Luật sư Trần Vân L bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Q có đơn xin vắng mặt và đã gửi bài phát biểu thể hiện quan điểm bào chữa cho bị cáo, bị cáo Q đồng ý xét xử vắng mặt Luật sư L. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vắng mặt Luật sư L.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Văn Q và Lâm Văn T thừa nhận vào khoảng 20 giờ ngày 14/7/2018, tại khóm N, phường N, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu, bị cáo Nguyễn Văn Q và bị cáo Lâm Văn T đã có hành vi cá độ bóng đá, cụ thể bị cáo Q dùng 7.000.000 đồng còn bị cáo T dùng 6.650.000 đồng để cá độ được thua bằng tiền với nhau, nhưng chưa có kết quả cuối cùng của trận bóng đá thì bị cáo Q bị bắt quả tang. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Văn Q và kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Lâm Văn T, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

[3.1] Khi thực hiện hành vi đánh bạc, các bị cáo Nguyễn Văn Q và Lâm Văn T đều là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nên biết được việc cá độ bóng đá được thua bằng tiền là vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, gây mất trật tự an ninh tại địa phương, mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác, nên cần phải xử lý nghiêm khắc mới đảm bảo việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho các bị cáo và cũng để răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[3.2] Đối với bị cáo Q: Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử sơ thẩm đã xem xét về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo Q như: Ngày 05/4/2017, bị cáo bị Ủy ban nhân dân phường N, thành phố B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ”, bị cáo chưa chấp hành xong quyết định; án sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo mức án 06 tháng tù là tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo phạm tội khi đang chấp hành Quyết định xử phạt hành chính và bị cáo đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc vào năm 2012 (đã chấp hành xong) nhưng bị cáo vẫn tiếp tục phạm tội đánh bạc đã thể hiện rõ việc bị cáo không có khả năng tự sửa chữa bản thân, đồng thời ngày 27/08/2007, bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”, đã được xóa án tích. Do vậy, lần phạm tội này bị cáo không được coi là phạm tội lần đầu. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới, bị cáo chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên không đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo.

[3.3] Đối với bị cáo T: Khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo T được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đầu thú được quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Mặc dù, bị cáo T có 02 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nhưng hành vi đánh bạc của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung, đồng thời cấp sơ thẩm đã có xem xét các tình tiết giảm nhẹ và áp dụng khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án 03 tháng tù, dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo.

Mặt khác, việc quyết định hình phạt tù cho hưởng án treo phải đảm bảo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Vì thế, Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù bị cáo có đủ điều kiện để áp dụng hình phạt tù có điều kiện theo quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao nhưng xét tính chất, mức độ hành vi của bị cáo là nguy hiểm đáng kể cho xã hội, là một trong những tệ nạn xã hội cần được bài trừ. Đồng thời, việc áp dụng hình phạt tù cho bị cáo được hưởng án treo sẽ không đảm bảo được tính răn đe và phòng ngừa được loại tội phạm này. Do vậy, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Q cung cấp các chứng từ chứng minh bị cáo đang bị nhiều bệnh như đái tháo đường dạng 2, viêm gan siêu vi B, nang thận, thoái hóa khớp, tăng men gan; bị cáo T cung cấp giấy xác nhận của địa phương bị cáo là lao động chính trong gia đình; kết quả xét nghiệm và toa thuốc thể hiện vợ bị cáo bị bệnh cao huyết áp vô căn, mẹ bị cáo bị bệnh đột quỵ não cấp. Hội đồng xét xử xét thấy việc bị cáo cũng như người vợ và mẹ của bị cáo bị bệnh không phải là tình tiết giảm nhẹ theo qui định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trong trường hợp bị cáo bị bệnh hoặc là lao động chính trong gia đình thì có quyền yêu cầu xem xét trong giai đoạn thi hành án.

[5] Như đã phân tích, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên được chấp nhận toàn bộ.

[6] Đối với đề nghị của các Luật sư bào chữa cho các bị cáo Q và T: Như đã nhận định ở phần trên thì cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo và xử phạt bị cáo T mức án 03 tháng tù, bị cáo Q mức án 06 tháng tù là có căn cứ pháp luật, nên không có căn cứ chấp nhận đề nghị của các Luật sư bào chữa cho các bị cáo.

[7] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn Q và Lâm Văn T kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

[8] Các phần Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2018/HS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bạc Liêu không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Q và Lâm Văn T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2018/HS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

2. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Q, Lâm Văn T (C) phạm tội “Đánh bạc.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lâm Văn T (C) 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Nguyễn Văn Q và Lâm Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

5. Các phần Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2018/HS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bạc Liêu không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
  • Tên bản án:
    Bản án 38/2019/HS-PT ngày 16/04/2019 về tội đánh bạc
  • Số hiệu:
    38/2019/HS-PT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    16/04/2019
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HS-PT ngày 16/04/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:38/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về