Bản án 379/2020/HS-PT ngày 21/09/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 379/2020/HS-PT NGÀY 21/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 21tháng 09 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 293/2020/TLPT-HS ngày 13 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo Lê Ngọc Tr + đp do có kháng cáo của bị cáo Lê Ngọc Tr, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc đối với bản án hình sự sơ thẩm số 102/2020/HS-ST ngày 10/07/2020 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

Các bị cáo bị kháng nghị và bị cáo có kháng cáo:

1. Lê Ngọc Tr (S), sinh năm 1975 tại Đ. Nơi cư trú: Ấp 6, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Sơn nước; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Ngọc B (chết) và bà Trần Thị T (chết); Vợ: Trần Thị Kim T, sinh năm 1981; Con: 02 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2008; Tiền án: không; Tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/3/2020 đến ngày 13/3/2020. Bị cáo hiện tại ngoại.

2. Hồ Duy Th, sinh năm 1986 tại Đ. Nơi cư trú: Ấp 2, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hồ Đức Ch, sinh năm 1962 và bà Lê Thị Kim O, sinh năm 1962; Vợ: Đoàn Thị Kim H, sinh năm 1990; Con:

01 con sinh năm 2014; Tiền án: 01, cụ thể: Tại bản án số 27/2012/HSST, ngày 28/02/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc tuyên phạt 01 năm 02 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách là 02 năm 01 tháng 20 ngày về tội “Đánh bạc” theo điểm b, khoản 2,3 điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi năm 2009). Hình phạt bổ sung phạt tiền là 5.000.000 đồng. Đến ngày 12/5/2020, Hồ Duy Th mới đóng hình phạt bổ sung là 5.000.000 đồng và đóng tiền án phí 200.000 đồng. Do đó, tính đến thời điểm phạm tội, thì Hồ Duy Th vẫn còn tiền án, chưa được xóa án tích; Tiền sự: không.

Ngày 10/3/2020 đến ngày 13/3/2020 bị tạm giữ về hành vi đánh bạc. Ngày 13/3/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Ngày 15/5/2020, bị Viện kiểm sát ra lệnh bắt tạm giam theo quyết định số 02/LBTG-VKSXL để truy tố, xét xử. Hiện đang bị tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Xuân Lộc. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

3. Lê Đức Quý L (Lì), sinh năm 1987 tại Đ. Nơi cư trú: Ấp 6, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Sơn nước; Trình độ văn hóa: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Đức Ph, sinh năm 1943 và bà Trần Thị L, sinh năm 1944; Vợ: Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 1986; Con: 02 con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án: không; Tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/3/2020 đến ngày 13/3/2020. Bị cáo hiện tại ngoại. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

4. Trương L, sinh năm 2000 tại Đ. Nơi cư trú: Ấp 6, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Quốc D, sinh năm 1972 và bà Trần Thị Bích L, sinh năm 1976; Vợ, con: Chưa; Tiền án: không; Tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/3/2020 đến ngày 13/3/2020. Bị cáo hiện tại ngoại. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

5. Võ Th L, sinh năm 1986 tại Đ. Nơi cư trú: Ấp 6, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn L, sinh năm 1964 và bà Hồ Thị Lệ Th, sinh năm 1964; Vợ: Cao Nguyễn Ý Nh, sinh năm 1989; Con:

01 con sinh năm 2017; Tiền án: không; Tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

6. Phạm Quốc Tr, sinh năm 1984 tại Tr. Nơi cư trú: Ấp 6, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn T, sinh năm 1959 và bà Trần Thị Hoàng A, sinh năm 1960; Vợ: Đoàn Thị Thùy D, sinh năm 1989; Con: 01 con sinh năm 2018; Tiền án: không; Tiền sự: không. Nhân thân: Tại Bản án số 255/2002/HSPT ngày 18/11/2002, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 18 tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích”, đã được xóa án tích. Bị cáo tại ngoại. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

7. Bùi Văn S, sinh năm 1983 tại Đ. Nơi cư trú: Ấp 6, xã Xuân Tâm, huyện Xuân L, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn Ngh, sinh năm 1946 và bà Trần Thị H, sinh năm 1950; Vợ: Thái Thị Kim Ch, sinh năm 1986; Con: 02 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án: không; Tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

8. Mai Thị Kim H, sinh năm 1980 tại B. Nơi cư trú: Ấp 6, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Mai Văn Ch, sinh năm 1955 và bà Phan Thị L, sinh năm 1960; Chồng: Nguyễn Trọng Q, sinh năm 1978; Con: 02 con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2003; Tiền án:

không; Tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 10 phút ngày 10/3/2020, tại quán cà phê “Võng” do Mai Thị Kim H làm chủ, thuộc ấp 6, xã X, huyện X, tỉnh Đ, Công an xã X phát hiện, bắt quả tang các đối tượng Lê Ngọc Tr, Lê Đức Quý L, Hồ Duy Th và Trương L đang thực hiện hành vi đánh bạc trái phép, bằng hình thức đánh bài binh xập xám thắng thua bằng tiền.

Qua điều tra xác định: Khoảng 14 giờ ngày 10/03/2020, Lê Ngọc Tr, Trương L và Võ Th L đến quán cà phê “Võng” do Mai Thị Kim H làm chủ để uống nước. Sau đó, Tr, L và L cùng rủ nhau đánh bài cát tê thắng thua bằng tiền. Sau khi thống nhất, Tr mua của H 02 bộ bài tây 52 lá với số tiền 20.000 đồng và được H đồng ý cho Tr, L và L mượn địa điểm đánh bạc tại bàn ghế nhựa có sẵn trong quán nhằm mục đích bán nước để thu lợi (không thu tiền xâu). Hình thức đánh bạc và số tiền thắng thua như sau: Các con bạc sử dụng bộ bài tây 52 lá để chơi, bắt đầu ván bài, mỗi người được chia 06 lá bài và 01 lá bài được lật ngửa lên gọi là “lá bài cá nước”. Nếu lên bài được các Tr hợp dưới đây thì được xử thắng ngay lập tức (thắng trắng): có tứ quý (04 lá bài cùng chữ hoặc cùng số), 06 lá bài cùng chất (cơ, rô, bích, tép), nếu có từ 02 người thắng trắng trở lên thì tứ quý lớn hơn thì thắng, 06 lá bài nào có chất lớn hơn thì thắng. Ván bài được chia Th từng vòng, người bắt đầu vòng chơi đánh xuống 01 lá bài, người tiếp theo (theo chiều ngược kim đồng hồ) có hai lựa chọn: Hoặc là đánh xuống 01 lá bài cùng chất giá trị lớn hơn lá bài vừa đánh hoặc úp xuống 01 lá bài bất kỳ, nếu người nào úp xuống 04 lá bài thì bị xử thua. Sau 04 vòng chơi thì người chơi giữ lại 02 lá bài để chưng ra so sánh lá bài dưới cùng, lá bài của người nào lớn nhất thì thắng. Số tiền mỗi người chơi bỏ ra để đặt cược là 50.000 đồng/ván.

Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, khi Tr, L và L đang đánh bài cát tê được khoảng từ 05 đến 06 ván thì Phạm Quốc Tr đến quán “Võng” tham gia đánh bạc thì tất cả thỏa thuận chuyển sang đánh bài “binh xập xám” làm cái xoay tua thắng thua bằng tiền. Hình thức đánh bạc và số tiền thắng thua như sau: Các con bạc sử dụng bộ bài tây 52 lá để chơi và chia bài làm cái một ván xoay tua theo chiều kim đồng hồ, mỗi tụ được chia 13 lá bài, người chơi sẽ sắp xếp bài của mình Th 03 chi trong đó 02 chi mỗi chi 05 lá bài và một chi 03 lá bài xếp theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. Bài lớn nhất là “sảnh rồng” (13 lá bài thứ tự liền kề nhau, không lẻ lá bài nào); thứ hai là “mậu binh” (tất cả ba chi đều là thùng, ba chi đều là sảnh hoặc sáu đôi); thứ ba là “thùng phá sảnh” (05 lá bài liền kề đồng chất với nhau); thứ tư là “tứ quý” (04 lá bài giống nhau, ví dụ: bốn con 5555); thứ năm là “cù lủ” (một chi có bá lá bài giống nhau và 02 lá bài giống nhau); thứ sáu là “thùng” (có 05 lá bài đồng chất); thứ bảy là “sảnh” (có một chi 05 lá bài theo thứ tự liền kề); thứ tám là “xám” (trong một chi có 03 lá bài giống nhau); thứ chín là “thú” (trong một chi có 02 đôi và 01 lá bài lẻ); thứ mười là “dách” (trong một chi có 01 đôi, các lá bài còn lại đều là lẻ); cuối cùng là “mậu thầu” (các lá bài lẻ). Các con bạc sẽ thay nhau làm cái xoay tua, mỗi người làm cái một ván xoay tua theo chiều kim đồng hồ. Sau khi người làm cái chia bài xong, các tụ chơi sẽ cầm bài và xếp bài của mình làm 03 chi theo cách thức như đã nêu ở trên. Sau đó, nhà cái sẽ so bài của mình với bài của 03 tụ còn lại để tính thắng thua với từng tụ bài, tụ bài nào thắng 02/03 chi bài thì sẽ thắng. Theo như thỏa thuận, người chơi tham gia đặt cược mỗi ván thấp nhất số tiền 50.000 đồng/tụ bài và đặt cược cao nhất số tiền 100.000 đồng/tụ bài.

Đến khoảng 15 giờ 50 phút cùng ngày, Bùi Văn S đến đề nghị Tr cho S hùn hạp chung tụ với Tr tham gia đánh bạc cùng với Tr, L, L (mỗi ván thắng thua S hùn hạp số tiền 10.000 đồng, Tr hùn hạp số tiền 40.000 đồng) thì được Tr đồng ý. Đến khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, Tr về trước, S thay Tr đánh bạc cùng với Tr, L, L. Khoảng 15 phút sau, Hồ Duy Th đến thì S về trước nên Th thay tụ S tham gia đánh bài binh xập xám cùng Tr, L, L. Lúc này, L đến ngồi xem khoảng 10 phút thì L về trước nên L thay L tham gia đánh bạc cùng với Tr, Th, L. Đến khoảng 18 giờ 10 phút cùng ngày, khi Lê Ngọc Tr, Hồ Duy Th, Lê Đức Quý L và Trương L đang đánh bạc thì bị Công an xã X phát hiện bắt quả tang. Số tiền dùng đánh bạc và kết quả được thua của từng con bạc cụ thể như sau:

1. Lê Ngọc Tr: sử dụng số tiền 11.230.000 đồng dùng để đánh bạc, đến khi bị bắt thắng số tiền 1.350.000 đồng (đã trả cho H số tiền 20.000 đồng tiền 02 bộ bài tây 52 lá và số tiền 10.000 đồng tiền nước uống), bị thu giữ trong người số tiền 12.550.000 đồng. Tổng số tiền sử dụng đánh bạc và thắng bạc là 12.580.000 đồng.

2. Hồ Duy Th: sử dụng số tiền 5.525.000 đồng dùng để đánh bạc, quá trình tham gia đánh bạc đã cho Trương L mượn số tiền 2.000.000 đồng để đánh bạc, (đã trả tiền nước cho H số tiền 5.000 đồng), đến khi bị bắt thắng số tiền 50.000 đồng, bị thu giữ trong người số tiền 3.570.000 đồng. Tổng số tiền sử dụng đánh bạc và thắng bạc là 5.575.000 đồng.

3. Trương L: ban đầu sử dụng số tiền 700.000 đồng dùng để đánh bạc, sau đó L thua hết số tiền trên nên đã mượn của Th số tiền 2.000.000 đồng để tiếp tục đánh bạc, đến khi bị bắt thua số tiền 2.700.000 đồng. Tổng số tiền sử dụng đánh bạc là 2.700.000 đồng.

4. Lê Đức Quý L: sử dụng số tiền 1.515.000 đồng dùng để đánh bạc, đến khi bị bắt thua số tiền 500.000 đồng (đã trả tiền nước cho H số tiền 15.000 đồng), bị thu giữ trong người số tiền 1.000.000 đồng. Tổng số tiền sử dụng đánh bạc là 1.515.000 đồng.

5. Phạm Quốc Tr: sử dụng số tiền 315.000 đồng dùng để đánh bạc và thắng được số tiền 300.000 đồng (đã trả tiền nước cho H số tiền 15.000 đồng). Tr đã tự nguyện giao nộp 600.000 đồng cho Cơ quan CSĐT Công an huyện X. Tổng số tiền sử dụng đánh bạc và thắng bạc là 615.000 đồng.

6. Bùi Văn S: khi đến quán cà phê không mang theo tiền, tham gia hùn hạp đánh bạc cùng Tr (mỗi ván thắng thua, S hùn hạp số tiền 10.000 đồng, Tr hùn hạp số tiền 40.000 đồng) thắng được 60.000 đồng, khi Tr về S đánh thay tụ Tr thì thua 50.000 đồng, còn lại 10.000 đồng, S đã trả tiền nước cho Mai Thị Kim H. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 60.000 đồng.

7. Võ Th L: sử dụng số tiền 310.000 đồng dùng để đánh bạc và thắng được số tiền 900.000 đồng (đã trả tiền nước cho H số tiền 10.000 đồng), trong quá trình về nhà đã làm rơi mất số tiền 1.200.000 đồng. Tổng số tiền sử dụng đánh bạc và thắng bạc là 1.210.000 đồng.

8. Mai Thị Kim H: dùng địa điểm quán cà phê Võng do H làm chủ, cho các con bạc đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền để thu lợi từ việc bán 02 bộ bài tây 52 lá và bán nước cho các con bạc đánh bạc, tổng số tiền thu lợi là 85.000 đồng, H đã tự nguyện giao nộp 85.000 đồng cho Cơ quan CSĐT Công an huyện X.

* Vật chứng thu giữ: Thu giữ tại chiếu bạc: 01 (một) bộ bài tây 52 đã qua sử dụng. 01 (một) bàn nhựa và 04 (bốn) ghế nhựa. Thu giữ trên người các đối tượng tham gia đánh bạc, cụ thể:

+ Thu giữ trên người Lê Ngọc Tr số tiền 12.550.000 đồng (Mười hai triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng).

+ Thu giữ trên người Hồ Duy Th số tiền 3.570.000 đồng (Ba triệu năm trăm bảy mươi nghìn đồng).

+ Thu giữ trên người Lê Đức Quý L số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng).

- Thu giữ phương tiện: Xe mô tô biển số 60B5-239.10; xe mô tô biển số 60H5-046.32; xe mô tô biển số 60N9-6884.

- Phạm Quốc Tr đã tự nguyện giao nộp số tiền 600.000 đồng (số tiền đem theo 300.000 đồng, số tiền thắng được 300.000 đồng) dùng để đánh bạc; Mai Thị Kim H đã tự nguyện giao nộp số tiền 85.000 đồng thu lợi từ việc bán nước, bán bài.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 102/2020/HS-ST ngày 10/7/2020 của Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc đã áp dụng điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h, khoản 1, điều 52; Điều 38; Điều 58; khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Hồ Duy Th: 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 15/5/2020 và được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 10/3/2020 đến ngày 13/3/2020.

- Căn cứ vào điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015.

+ Xử phạt bị cáo Lê Ngọc Tr: 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày người bị kết án vào cở sở giam giữ chấp hành án phạt tù, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 10/3/2020 đến ngày 13/3/2020.

- Căn cứ vào điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 35; Điều 58; Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015.

+ Phạt tiền bị cáo Lê Đức Quý L (Lì): 20.000.000 đ (Hai mươi triệu đồng).

+ Phạt tiền bị cáo Trương L: 20.000.000 đ (Hai mươi triệu đồng).

+ Phạt tiền bị cáo Võ Th L: 20.000.000 đ (Hai mươi triệu đồng).

+ Phạt tiền bị cáo Phạm Quốc Tr: 20.000.000 đ (Hai mươi triệu đồng).

+ Phạt tiền bị cáo Bùi Văn S: 20.000.000 đ (Hai mươi triệu đồng).

+ Phạt tiền bị cáo Mai Thị Kim H: 20.000.000 đ (Hai mươi triệu đồng). Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về biện pháp tư pháp, về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 22/7/2020, bị cáo Lê Ngọc Tr kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 23/07/2020 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc có quyết định số 07/QĐ-VKSXL kháng nghị phần hình phạt tại bản án 102/2020/HS-ST ngày 10/7/2020 của Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc, đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo Lê Ngọc Tr, Hồ Duy Th; Xử phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo Lê Đức Quý L, Phạm Quốc Tr, Bùi Văn S, Võ Th L, Trương L và Mai Thị Kim H.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, đối chiếu với lơi khai cua bi cao tai phiên tòa đã có đủ căn cứ kết luận hành vi của các bị cáo Lê Ngọc Tr cùng đp bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Mức án mà tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Lê Ngọc Tr và Hồ Duy Th mỗi bị cáo 06 (sáu) thánh tù, phạt các bị cáo Lê Đức Quý L, Phạm Quốc Tr, Bùi Văn S, Võ Th L, Trương L và Mai Thị Kim H mỗi bị cáo 20.000.000đ là phù hợp với hành vi, tính chất mức độ mà bị cáo đã thực hiện.

Ngày 14/9/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc đã có quyết định số 01/QĐ-VKSXL rút toàn bộ quyết định kháng nghị số 07/QĐ- VKSXL ngày 23/07/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc là đúng quy định. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng Hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc.

Đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Ngọc Tr, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá toàn bộ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xét xử về tội “Đánh bạc” là đúng pháp luật, đồng thời xử phạt bị cáo với mức án là 06 tháng tù là phù hợp không nặng như nội dung kháng cáo của bị cáo đã nêu.

Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được chứng cứ nào mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Do vậy, không có cở sở để xem xét kháng cáo của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Lê Ngọc Tr và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc làm trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

- Trước khi xét xử phúc thẩm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc có quyết định số 01/QĐ-VKSXL ngày 14 tháng 09 năm 2020 rút toàn bộ nội dung quyết định kháng nghị số 07/QĐ-VKSXL ngày 23/07/2020 của Viện trưởng kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc.

[2] Về nội dung kháng cáo của bị cáo Tr:

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc Tr khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không - Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chưa có tiền án tiền sự, xuất thân từ thành phần lao động và là lao động chính trong gia đình nên được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mà chuyển sang hình phạt tiền cũng đảm bảo đủ nghiêm với mục đích giáo dục bị cáo.

[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm đ khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Ngọc Tr. Sửa bản án sơ thẩm số 102/2020/HSST ngày 10/07/2020, của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc Tr: 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng).

2. Căn cứ khoản 1 Điều 348; Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với quyết định kháng nghị số 07/QĐ- VKSXL ngày 23/07/2020 của Viện trưởng kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc đối với các bị cáo Lê Ngọc Tr, Hồ Duy Th; Lê Đức Quý L, Phạm Quốc Tr, Bùi Văn S, Võ Th L, Trương L và Mai Thị Kim H.

Các bị cáo bị xét xử về tội “Đánh bạc”.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo không phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 379/2020/HS-PT ngày 21/09/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:379/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về