Bản án 376/2017/HSPT ngày 07/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 376/2017/HSPT NGÀY 07/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07-12-2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 362/2017/HSPT ngày 27-10-2017, đối với bị cáo Đào Minh H về tội “Trộm cắp tài sản”.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 63/2017/HSST ngày 15/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo: Họ và tên: Đào Minh H, sinh ngày 31-3-1999 tại tỉnh Thái Nguyên.

Nơi cư trú: Thôn P, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; con bà Đào Thị H (đã chết), con ông: Không biết cha là ai; tiền sự, tiền án: Không có; bị cáo hiện đang được tại ngoại theo Quyết định cho bảo lĩnh số 33 ngày 29-5-2017 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ ngày 08-5-2017, Đào Minh H đi chơi về, khi đi ngang qua nhà chị Lê Thị H1 tại thôn P, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, thì phát hiện xe mô tô biển số 47AB-xxx.xx để trong sân không có người trông coi, nên H nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe này. H đi đến cổng nhà chị H1 thấy không khóa cổng nên mở cổng đi vào trong sân, lén lút lấy trộm chiếc xe đưa đến cất giấu tại một căn nhà hoang không có người ở tại thôn P, xã E, huyện K (nhà của bà Đoàn Thị Ngọc U). Đến khoảng 11 giờ ngày 09-5-2017, H đến nơi cất giấu xe mô tô tháo rời các bộ phận của xe ra và lấy 02 bánh xe mô tô đem bán cho anh Nguyễn Võ Quý H2 được số tiền 350.000 đồng. Ngày 11-5-2017, H đến tiệm sửa xe máy của anh Trần Tiến H3 hỏi bán các phụ tùng xe nhưng anh H3 không mua. Ngày 12-5-2017, H đến nơi cất giấu xe thì thấy Công an huyện Krông Pắc đang tiến hành thu giữ các bộ phận còn lại của xe nên H bỏ đi về, sau đó sự việc bị phát hiện.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 37/KL-ĐG ngày 18-5-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Krông Pắc đã kết luận: Xe mô tô biển số 47AB-xxx.xx giá trị 8.300.000đồng (tám triệu ba trăm ngàn đồng).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 63/2017/HSST ngày 15-9-2017 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định: Tuyên bố: Bị cáo Đào Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm b, g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Đào Minh H 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26-9-2017 bị cáo Đào Minh H có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích và đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Đào Minh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, mức hình phạt 09 tháng tù đã tuyên phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, bởi lẽ bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, mẹ đã mất, bị cáo không biết cha là ai và hiện ở với ông bà, nên thiếu sự chăm sóc, giáo dục của cha mẹ. Do đó, cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo, tuy nhiên cũng cần phải cách ly bị cáo với xã hội một thời gian, để đảm bảo việc cải tạo, giáo dục bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 248, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt; áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm b, g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 06 tháng tù. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Lời khai nhận của bị cáo Đào Minh H tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 03 giờ ngày 08-5-2017, bị cáo Đào Minh H đã có hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô biển số 47AB-xxx.xx của chị Hồ Thị N đang để trong sân của nhà chị Lê Thị H1, tại thôn P, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 8.300.000 đồng. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Mức hình phạt 09 tháng tù mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, bởi lẽ: Tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn, đã được thu hồi trả cho bị hại; bị cáo đã có trách nhiệm bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người bị hại đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đồng thời hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, thiếu sự chăm sóc, giáo dục của cha mẹ. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, do đó cần chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo và giảm một phần hình phạt cho bị cáo, là phù hợp. Tuy nhiên cũng cần phải cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhất định, để đảm bảo việc cải tạo, giáo dục bị cáo và để đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận một phần, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng khoản 1 Điều 138, các điểm b, g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Đào Minh H, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt.

Xử phạt: Bị cáo Đào Minh H 06 (sáu) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[2] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

418
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 376/2017/HSPT ngày 07/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:376/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về