Bản án 37/2021/HSST ngày 22/09/2021 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 37/2021/HSST NGÀY 22/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 22 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2021/HSST ngày 31 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. NGÔ VIẾT H - Sinh năm 1990 - Tại TP Đ; nơi ĐKNKTT: Tổ 27, phường H, quận L, TP Đà Nẵng; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Viết T và bà Nguyễn Thị Cẩm T;

Tiền án: Năm 2020, bị TAND quận Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 19/2020/HSST ngày 04/5/2020 (đã chấp hành xong bản án ngày 26/9/2020, nhưng chưa chấp hành phần án phí).

Tiền sự: Ngày 23/01/2019, bị Công an phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng xử phạt hành chính 750.000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (chưa chấp hành việc nộp phạt).

Nhân thân: Năm 2014, bị TAND TP.Đà Nẵng xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 119/2014/HSPT ngày 24/6/2014.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/5/2021 – Có mặt tại phiên tòa.

2. BÙI KIM P – Sinh năm 1981 - Tại TP Đ; nơi ĐKNKTT: Tổ dân phố C, thị trấn Đ, huyện Q, tỉnh Q; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi A và bà Nguyễn Thị Hồng Đ; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị T và có 02 con (con lớn 10 tuổi, con nhỏ 06 tuổi); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 30/6/2021 – Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

01. Bà Nguyễn Thị Thanh H – Sinh năm 1982 Trú tại: K112/8 Trần Văn D, quận N, TP Đ.

02. Ông Trần Ngọc L – Sinh năm 1988 Trú tại: K96/3 đường Bà Huyện Thanh Quan, quận N, TP Đ .

03. Bà Đoàn Thị M – Sinh năm 1978 Trú tại: K96/13 Bà Huyện Thanh Quan, quận N, TP Đ.

04. Ông Phạm Thành Đ– Sinh năm 1988 Trú tại: K354/01 Võ nguyên Giáp, quận N, TP Đ.

05. Ông Lâm Ngọc Minh C – Sinh năm 1998 Trú tại: 27 Chế Lan Viên, quận N, TP Đ.

06. Bà Nguyễn Thị H1 – Sinh năm 1997 Trú tại: 27 Chế Lan Viên, quận N, TP Đ.

(Tất cả những người bị hại đều vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

01. Bà Nguyễn Thị Xuân L1 – Sinh năm 1991 Trú tại: Tổ 23, phường N, quận H, TP Đ.

02. Ông Đàm Quang T – Sinh năm 1977 Trú tại: Tổ 42, phường H, quận H, TP Đà Nẵng.

03. Bà Nguyễn Thị Mỹ D – Sinh năm 1992 Trú tại: Tổ 23, phường N, quận H, TP Đà Nẵng.

04. Ông Ngô Ngọc T – Sinh năm 1981 Trú tại: K96/166/01 Điện Biên Phủ, quận T, TP Đ.

(Tất cả những người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 20 giờ 50 phút ngày 20/5/2021, tại khu phòng trọ số 126 đường Bà Huyện Thanh Quan, P.Mỹ An, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng, Công an P.Mỹ An, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng kiểm tra hành chính phát hiện tại phòng trọ do Ngô Viết H và Nguyễn Thị Lan X thuê ở và phòng trọ do Đàm Quang T và Nguyễn Thị Mỹ D thuê ở có nhiều tài sản là ĐTDĐ các loại, máy tính bảng chưa rõ nguồn gốc nên tiến hành lập biên bản và mời về trụ sở làm việc. Tại thời điểm kiểm tra hành chính Đàm Quang T không có tại phòng trọ.

Tang vật tạm giữ:

- Tại phòng trọ của Ngô Viết H và Nguyễn Thị Lan X, tạm giữ của Ngô Viết H: 01 ĐTDĐ hiệu Samsung màu vàng gold; 01 máy tính bảng hiệu LG, màu trắng; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia xanh dương; 01 tai nghe blutooth hiệu Xiaomi; 01 thiết bị phát wifi hiệu Totolink màu trắng; 01 thiết bị phát wifi hiệu Reliance màu đen.

- Tại phòng trọ của Đàm Quang T và Nguyễn Thị Mỹ D, tạm giữ của:

+ Đàm Quang T: 01 ĐTDĐ hiệu Samsung galaxy A02 màu xanh; 01 ĐTDĐ hiệu Samsung J6 màu đen (có màn hình hoa sen); 01 ĐTDĐ hiệu Samsung J6 màu vàng gold; 01 ĐTDĐ Iphone 6S plus màu hồng; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia loại 1068 màu đen và 01 CMND phô tô mang tên Đàm Quang Tâm.

+ Nguyễn Thị Mỹ D: 01 ĐTDĐ hiệu Samsung galxy A20 màu xanh và 01 ĐTDĐ hiệu Inltel màu đen.

Ngoài ra, kiểm tra test nhanh ma túy đối với Nguyễn Thị Lan Xuân, Nguyễn Thị Mỹ Dung kết quả dương tính với ma túy.

Quá trình điều tra xác định Ngô Viết H đã nhiều lần trộm cắp tài sản đem bán lấy tiền tiêu xài, cụ thể như sau:

Tháng 10/2020, sau khi Ngô Viết H chấp hành xong hình phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản” thì trở về nhà. Do có quan hệ tình cảm với Nguyễn Thị Lan X, từ ngày 11/5/2021, H và Xuân L thuê phòng trọ để ở tại địa chỉ số 126 đường Bà Huyện Thanh Quan, P.Mỹ An, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng. Từ ngày 17/5/2021 đến ngày 20/5/2021, H đã 05 lần trộm cắp tài sản trên địa bàn Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng đem bán lấy tiều tiêu xài, cụ thể:

- Lần thứ nhất: Khong 03 giờ ngày 17/5/2021, H đột nhập vào nhà số K112/8 đường Trần Văn Dư, P.Mỹ An, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng trộm cắp của ông Nguyễn Thanh H: 01 máy tính xách tay hiệu HP màu xám; 01 ĐTDĐ hiệu Oppo A93 màu rắng; 01 ĐTDĐ hiệu Samsung A02 màu xanh; 01 ĐTDĐ hiệu Xiaomi Note 5 màu đen nhám và tiền mặt 1.900.000đ rồi đem về phòng trọ cất giấu.

Đến chiều cùng ngày, H đem 01 ĐTDĐ hiệu Samsung A02 màu xanh sang phòng trọ của Đàm Quan T cầm lấy số tiền 1.500.000đ. Đồng thời, thông qua mạng xã hội, H đem 01 máy tính xách tay hiệu HP màu xám bán cho ông Ngô Ngọc Tùng với giá 10.000.000đ. Số tiền trộm cắp và bán tài sản có được, H đã tiêu xài hết.

Ngô Ngọc T sau khi mua máy tính xách tay của H đã rao bán trên mạng xã hội cho một người (không xác định được lai lịch) được 10.800.000đ, T đã tự nguyện giao nộp lại số tiền chênh lệch 800.000đ.

Theo Kết luận định giá số: 48/KLĐG-HĐĐGTS ngày 07/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng kết luận: 01 máy tính xách tay hiệu HP, màu xám trị giá: 18.702.000đ; 01 ĐTDĐ hiệu Oppo A93 màu trắng trị giá: 5.841.000đ; 01 ĐTDĐ hiệu Sasung A02 màu xanh trị giá: 2.080.000đ (đã thu hồi được); 01 ĐTDĐ hiệu Xiaomi Note 5 màu đen nhám trị giá: 1.434.000đ. Tổng giá trị tài sản định giá: 28.057.000đ.

Như vậy, tổng giá trị tài sản H trộm cắp của ông Hiền là 30.583.000đ (trong đó:

28.057.000đ giá trị tài sản và 1.900.000đ tiền mặt).

- Lần thứ hai: Khong 02 giờ ngày 19/5/2021, H đột nhập vào nhà số K96/03 đường Bà Huyện Thanh Quan, P.Mỹ An, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng trộm cắp của ông Trần Ngọc L: 01 tai nghe Blutooth hiệu Xiaomi; 02 thiết bị phát wifi hiệu Totolink và Reliance;

01 vòng vàng đeo tay (bằng vàng 18K, trọng lượng 1,66 chỉ) rồi đem về phòng trọ cất giấu (riêng 01 vòng vàng, H khai đã bị rớt mất không thu hồi được).

Theo Kết luận định giá số: 48/KLĐG-HĐĐGTS ngày 07/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng kết luận: 01 tai nghe Blutooth hiệu Xiaomi trị giá: 200.000đ; 02 thiết bị phát wifi hiệu Totolink và Reliance trị giá: 400.000đ (đã thu hồi được); 01 vòng vàng đeo tay (bằng vàng 18K, trọng lượng 1,66 chỉ) trị giá: 6.263.000đ.

Như vậy, tổng giá trị tài sản H trộm cắp của ông L là 6.863.000đ.

- Lần thứ ba: Sau khi trộm cắp vụ thứ hai, khoảng 03 giờ ngày 19/5/2021, H đột nhập vào phòng trọ tại K96/13 đường Bà Huyện Thanh Quan, P.Mỹ An, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng trộm cắp của bà Đoàn Thị M: 01 ĐTDD hiệu Samsung A7 màu bạc rồi đem về phòng trọ cất giấu.

Theo Kết luận định giá số: 48/KLĐG-HĐĐGTS ngày 07/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng kết luận: 01 ĐTDĐ hiệu Samsung A7 màu bạc trị giá: 1.434.000đ (đã thu hồi được).

- Lần thứ tư: Rạng sáng ngày 19/5/2021, sau khi trộm cắp vụ thứ ba, H đột nhập vào nhà trọ tại địa chỉ số K354/01 đường Võ Nguyên Giáp, P.Mỹ An, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng trộm cắp của ông Phan Thành Đ lấy trộm: 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 6S plus màu vàng Gold rồi đem về phòng trọ cất giấu.

Theo Kết luận định giá số: 49/KLĐG-HĐĐGTS ngày 09/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng kết luận: 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 6S plus màu vàng Gold trị giá: 1.400.000đ (đã thu hồi được).

- Lần thứ năm: Khong 03 giờ ngày 20/5/2021, H đột nhập vào tầng 2 của nhà trọ số 27 đường Chế Lan Viên, P.Mỹ An, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng trộm cắp của bà Lâm Ngọc Minh C: 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 7 plus màu đỏ; của bà Nguyễn Thị Huyền: 01 ĐTDĐ Iphone 11 Pro 64GB màu đen, ốp lưng màu hồng phấn, 01 ĐTDĐ Iphone 7 màu đen và lục bóp lấy 500.000đ rồi đem về phòng trọ cất giấu.

Cùng ngày, H rao bán trên mạng xã hội cho một người (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 7 màu đen với giá 500.000đ.

Theo Kết luận định giá số: 48/KLĐG-HĐĐGTS ngày 07/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng kết luận: 01 ĐTDĐ Iphone 7 plus màu đỏ trị giá: 5.880.000đ; 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 11 Pro 64 GB màu đen, ốp lưng màu hồng phấn trị giá: 11.700.000đ (đã thu hồi được 02 ĐTDĐ); 01 ĐTDĐ Iphone 7 màu đen trị giá: 3.200.000đ. Tổng trị tài sản định giá: 20.780.000đ.

Như vậy, tổng giá trị tài sản H trộm cắp của bà C là 5.880.000đ; của bà Huyền là 15.400.000đ (trong đó: 14.900.000đ giá trị tài sản và 500.000đ tiền mặt).

Đối với Bùi Kim P, trong hai ngày 19/5/2021 và 20/5/2021 tại tiệm sửa chữa, mua bán điện thoại di động Quốc Bảo (địa chỉ số 18 đường Huỳnh Ngọc Huệ, Q.Thanh Khê, TP.Đà Nẵng do P làm chủ), P đã 02 lần tiêu thụ tài sản do H trộm cắp mà có, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khong 06 giờ ngày 19/5/2021, Ngô Viết H đem 01 ĐTDĐ hiệu Oppo A93 màu trắng; 01 ĐTDD hiệu Xiaomi Note 5 màu đen nhám (trộm cắp của anh H trong lần thứ nhất) và 01 ĐTDD hiệu Samsung A7 màu bạc (trộm cắp của bà Mai trong lần thứ ba) bán cho P. Sau khi kiểm tra các ĐTDĐ đều khóa bằng mật khẩu, P hỏi H mật khẩu nhưng H không cung cấp được nên P biết nguồn gốc tài sản này do H phạm tội mà có nên đồng ý mua lại 03 ĐTDĐ trên với giá 2.600.000đ. Sau đó, P đã bán lại cho hai người (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 ĐTDĐ hiệu Oppo A93 màu trắng với giá 2.800.000đ và 01 ĐTDĐ hiệu Xiaomi Note 5 màu đen nhám giá 1.400.000đ; thu lợi số tiền chênh lệch là 1.600.000đ.

Lần thứ hai: Khong 06 giờ ngày 20/5/2021, Ngô Viết H đem 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 6S plus màu vàng Gold (trộm cắp của ông Đ trong lần thứ tư); 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 7 plus màu đỏ; 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 11 Pro 64GB (trộm cắp của bà Châu và bà Huyền trong lần thứ năm) bán cho P. Cũng như lần trước, sau khi kiểm tra các ĐTDĐ đều khóa bằng mật khẩu, P hỏi H mật khẩu nhưng H không cung cấp được nên P biết nguồn gốc tài tài sản này do H phạm tội mà có nên đồng ý mua lại 03 ĐTDĐ trên với giá 4.600.000đ.

Sau khi bị phát hiện, Bùi Kim P đã giao nộp cho Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng: 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 7 plus màu đỏ; 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 6S plus màu vàng; 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 11 Pro 64GB; 01 ĐTDĐ hiệu Samsung A7.

Như vậy, tổng giá trị tài sản mà Ngô Viết H đã 05 lần trộm cắp được là 60.160.000đ và đem bán thu lợi bất chính số tiền 17.700.000đ. Tổng giá trị tài sản mà Bùi Kim P đã 02 lần tiêu thụ do H trộm cắp mà có là 28.315.000đ, thu lợi bất chính 1.600.000đ.

Quá trình điều tra các bị can Ngô Viết H, Bùi Kim P đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số: 43/CT-VKS-NHS ngày 31/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng thì bị cáo Ngô Viết H bị truy tố về tội: "Trộm cắp tài sản" theo điểm b, c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự; Bị cáo Bùi Kim P bị truy tố về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn TP. Đà Nẵng thực hành quyền công tố nhà nước vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố Ngô Viết H và Bùi Kim P về tội danh như đã nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm b,c khoản 2 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Ngô Viết H từ 04 năm đến 04 năm, 06 tháng tù.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 323; điểm g khoản 1 Điều 52,điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Bùi Kim P từ 06 đến 12 tháng tù.

* Về vật chứng và dân sự:

- Ông Nguyễn Thanh H đã nhận lại 01 ĐTDĐ hiệu Samsung A02 và yêu cầu bồi thường dân sự số tiền 28.503.000đ (đối với 02 máy tính xách tay hiệu HP, 01 ĐTDĐ hiệu Oppo A93 và 01 ĐTDĐ hiệu Xiaomi Note 5 do chưa thu hồi được).

- Ông Trần Ngọc L đã nhận lại 01 tai nghe Bluetooth, 02 thiết bị phát wifi và yêu cầu bồi thường số tiền 7.000.000đ (đối với 01 vòng vàng do chưa thu hồi được).

- Bà Nguyễn Thị H đã nhận lại 01 ĐTDD hiệu Iphone 11Pro 64 GB và yêu cầu bồi thường 2.000.000đ (đối với 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 7 do chưa thu hồi được).

- Đề nghị HĐXX tuyên buộc bị cáo Bùi Kim P phải có nghĩa vụ bồi thường số tiền yêu cầu của những người bị hại nêu trên theo quy định của pháp luật.

- Bà Đoàn Thị M, bà Lâm Ngọc Minh C đã nhận đủ tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu gì nên không đề cập đến.

- Bị cáo Bùi Kim P không có yêu cầu gì đối với số tiền mua tài sản trộm cắp của bị cáo H nhưng đã bị cơ quan điều tra thu hồi, nên không đề cập đến.

- Bà Nguyễn Thị H và bà Lâm Ngọc Minh C có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với Ngô Viết H.

- Đề nghị trả lại cho chủ sở hữu do không liên quan đến hành vi phạm tội:

+ 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 6S plus màu vàng Gold cho anh Phạm Thành Đạt;

+ 01 ĐTDĐ hiệu Samsung Galaxy A20 và 01 ĐTDĐ hiệu Intel cho Nguyễn Thị Mỹ D;

+ 01 ĐTDĐ hiệu Samsung hiệu J6 màu đen, màn hình hoa sen; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia 0168 màu đen; 01 ĐTDD hiệu Samsung J6 màu gold; 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 6 plus màu hồng cho Đàm Quang T.

- Đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

+ Số tiền 800.000đ do Ngô Ngọc T giao nộp (tiền chênh lệch từ việc T bán máy tính xách tay mua của H);

+ Số tiền 17.700.000đ của Ngô Viết H thu lợi bất chính từ việc bán các tài sản trộm cắp được mà có;

- Đề nghị tiếp tục tạm giữ để đảm bảo quy trữ thi hành án: 01 máy tính bảng hiệu LG màu trắng; 01 ĐTDĐ hiệu Samsung màu vàng Gold; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu xanh dương là tài sản cá nhân của Ngô Viết H.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và những người tham gia tố tụng không có ý kiến kH nại gì nên HĐXX không xem xét.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Từ ngày 17/5/2021 đến ngày 20/5/2021, trên địa bàn phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng, Ngô Viết H đã 05 lần trộm cắp tài sản cụ thể như sau: Của ông Nguyễn Thanh H 01 máy tính xách tay hiệu HP, 03 ĐTDĐ và 1.900.000đ tiền mặt; của ông Trần Ngọc L 01 tai nghe Blutooth; 02 thiết bị phát wifi, 01 vòng vàng 18K (1,66 chỉ); của bà Đoàn Thị M 01 ĐTDĐ; của ông Phạm Thành Đ 01 ĐTDĐ; của bà Lâm Ngọc Minh C 01 ĐTDĐ; của bà Nguyễn Thị H 02 ĐTDĐ và 500.000đ. Tổng giá trị tài sản mà H trộm cắp là 60.160.000đ. Sau khi trộm cắp được tài sản, Ngô Viết H đã bán một số tài sản trên và thu lợi bất chính số tiền là 17.700.000đ, đã tiêu xài cá nhân hết.

Đối với Bùi Kim P, trong hai ngày 19/5/2021 và 20/5/2021, tại cửa hàng sửa chữa, mua bán điện thoại di động Quốc Bảo (địa chỉ số 18 đường Huỳnh Ngọc Huệ, Q.Thanh Khê, TP.Đà Nẵng), mặc dù không hứa hẹn trước nhưng P đã 02 lần có hành vi mua 06 ĐTDĐ các loại biết rõ do H phạm tội mà có với tổng giá trị tài sản là 28.315.000đ, thu lợi bất chính 1.600.000đ.

Hành vi nêu trên của bị cáo Ngô Viết H đã phạm vào tội: "Trộm cắp tài sản", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự và hành vi của bị cáo Bùi Kim P đã phạm vào tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự như cáo trạng số 43/CT-VKS-NHS ngày 31/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn đã truy tố và đề nghị mức hình phạt như trên đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[1] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội và nhân thân của từng bị cáo thì thấy: Bị cáo Ngô Viết H là người có tiền án, chưa được xóa án tích về tội “Trộm cắp tài sản”. Lẽ ra, sau những lần bị pháp luật xử lý, bị cáo phải lấy đó làm bài học cho mình, phải cố gắng rèn luyện bản thân để trở thành công dân tốt. Nhưng bị cáo đã không làm được điều đó và muốn thỏa mãn nhu cầu cá nhân bằng thành quả lao động của người khác nên bị cáo đã tiếp tục tái phạm và nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội. Trong thời gian từ ngày 17/5/2021 đến ngày 20/5/2021, bị cáo đã 05 lần thực hiện hành vi trộm cắp với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 60.160.000đ của những người bị hại để làm nguồn sống chính cho bản thân, điều đó chứng tỏ bị cáo thực hiện hành vi mang tính chuyên nghiệp.

Hành vi của bị cáo không những gây thiệt hại về tài sản cho những người bị hại mà còn làm mất trật tự an ninh tại địa phương. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52, điểm b, c khoản 2 Điều 173 BLHS để xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần xử tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng một thời gian mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và răn đe đối với toàn xã hội.

Nhưng xét thấy, bị cáo đã tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, các bị hại Nguyễn Thị Huyền và Lâm Thị Minh Châu đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên HĐXX xét thấy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với Bùi Kim P là người có trình độ học vấn, đã lập gia đình. Lẽ ra, bị cáo phải cố gắng phấn đấu trở thành công dân tốt để xây dựng gia đình và làm tấm gương tốt cho các con noi theo. Nhưng bị cáo đã không làm được điều đó mà khi biết tài sản mà Ngô Viết H bán cho mình là do phạm tội mà có nhưng bị cáo chỉ vì ham lợi mà bất chấp pháp luật. Trong vụ án, bị cáo đã 02 lần tiêu thụ tài sản do H trộm cắp với giá trị 28,315.00đ và thu lợi bất chính 1.600.000đ. Từ những nhận định ở trên, HĐXX xét thấy cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục bị cáo và răn đe những đối tượng có hành vi tương tự.

Song xét thấy bị cáo có nhân thân tốt và đã tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án; tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo đã tự nguyện nộp lại số tiền thu lợi bất chính và có hai con còn rất nhỏ, nên HĐXX xét thấy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s,t khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Đối với Nguyễn Thị Lan X, trong thời gian thuê phòng trọ sống chung với Ngô Viết H, X không biết, không tham gia cùng với H thực hiện hành vi phạm tội và Nguyễn Thị Mỹ D không liên quan đến hành vi phạm tội của H. Tuy nhiên, X và D có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng đã xử lý hành chính là có căn cứ.

Đối với Đàm Quang T có hành vi nhận cầm cố 01 ĐTDĐ hiệu Samsung A02 và Ngô Ngọc Tùng có hành vi mua 01 máy tính xách tay hiệu HP do H đem cầm cố và bán nhưng không biết tài sản do H trộm cắp có được. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng không đề cập xử lý là có căn cứ nên HĐXX không đề cập đến.

* Về tang vật:

- Trong quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Nguyễn Thanh H 01 ĐTDĐ hiệu Samsung A02; ông Trần Ngọc L 01 tai nghe Bluetooth, 02 thiết bị phát wifi; Bà Nguyễn Thị H 01 ĐTDD hiệu Iphone 11Pro 64 GB là đúng quy định của pháp luật.

- Bà Đoàn Thị M, bà Lâm Ngọc Minh C đã nhận đủ tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu gì nên không đề cập đến.

Đối với 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 6S plus màu vàng Gold của ông Phạm Thành Đạt;

01 ĐTDĐ hiệu Samsung Galaxy A20 và 01 ĐTDĐ hiệu Intel của bà Nguyễn Thị Mỹ D;

01 ĐTDĐ Samsung hiệu J6 màu đen, màn hình hoa sen; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia 0168 màu đen; 01 ĐTDD hiệu Samsung J6 màu gold; 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 6 plus màu hồng của ông Đàm Quang T. Xét thấy, các tài sản này không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên cần tuyên trả lại cho các chủ sở hữu.

Đối với số tiền 800.000đ của Ngô Ngọc T và số tiền 1.600.000đ của Bùi Kim P, đây là các khoản tiền thu lợi bất chính mà có nên xét thấy cần tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước là đúng quy định của pháp luật.

Đối với số tiền thu lợi bất chính 17.700.000đ của Ngô Viết H, xét thấy cần tuyên truy thu để sung và ngân sách nhà nước.

Đối với 01 máy tính bảng hiệu LG màu trắng; 01 ĐTDĐ hiệu Samsung màu vàng Gold; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu xanh dương là tài sản cá nhân của Ngô Viết H, xét thấy cần tuyên tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- Bị cáo Bùi Kim P không có yêu cầu gì đối với số tiền mua tài sản của bị cáo H nhưng đã bị cơ quan điều tra thu hồi nên HĐXX không xem xét. Sau này nếu có phát sinh tranh chấp giữa các đương sự sẽ được giải quyết ở vụ án khác.

* Về dân sự:

Ông Nguyễn Thanh H yêu cầu bồi thường dân sự số tiền 28.503.000đ (đối với 02 máy tính xách tay hiệu HP, 01 ĐTDĐ hiệu Oppo A93 và 01 ĐTDĐ hiệu Xiaomi Note 5); ÔngTrần Ngọc L yêu cầu bồi thường số tiền 7.000.000đ (đối với 01 vòng vàng); Bà Nguyễn Thị H yêu cầu bồi thường số tiền 2.000.000đ (đối với 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 7). Đây là số tài sản của các đương sự bị H chiếm đoạt nhưng quá trình điều tra chưa thu hồi được. HĐXX xét thấy yêu cầu của các đương sự là đúng pháp luật nên cần tuyên buộc bị cáo Ngô Viết H phải có nghĩa vụ trả cho các chủ sở hữu số tiền yêu cầu như trên là thỏa đáng.

* Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Riêng bị cáo Ngô Viết H còn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về số tiền phải bồi thường cho những người bị hại là: 28.503.000đ + 7.000.000đ + 2.000.000đ = 37.503.000đ x 5% = 1.875.000đ Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Viết H phạm tội: "Trộm cắp tài sản"; bị cáo Bùi Kim P phạm tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” Căn cứ: Điểm b, c khoản 2 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Viết H 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 21/5/2021.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 323, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Kim P 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 30/6/2021.

* Về tang vật:

- Tuyên trả lại tài sản cho những người có tên sau:

+ Phạm Thành Đ: 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 6S plus màu vàng Gold;

+ Nguyễn Thị Mỹ D: 01 ĐTDĐ hiệu Samsung Galaxy A20 và 01 ĐTDĐ hiệu Intel;

+ Đàm Quang T 01 ĐTDĐ Samsung hiệu J6 màu đen, màn hình hoa sen; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia 0168 màu đen; 01 ĐTDD hiệu Samsung J6 màu gold; 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 6 plus màu hồng.

- Tuyên tiếp tục quy trữ tài sản của Ngô Viết H để đảm bảo thi hành án:

+ 01 máy tính bảng hiệu LG màu trắng; 01 ĐTDĐ hiệu Samsung màu vàng Gold; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu xanh dương.

- Tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:

+ 800.000đ của Ngô Ngọc T

+ 1.600.000đ của Bùi Kim P.

(Tất cả vật chứng trên hiện đang được lưu giữ theo văn bản giao nhận vật chứng lập ngày 14/9/2021, biên lai thu tiền số 003997 lập ngày 15/9/2021 và giấy ủy nhiệm chi lập ngày 16/9/2021 tại Chi cục thi hành án quận Ngũ hành Sơn).

- Tuyên buộc bị cáo Ngô Viết H phải nộp17.700.000đ để sung vào ngân sách nhà nước.

* Về dân sự:

- Tuyên buộc Ngô Viết H phải bồi thường:

+ Ông Nguyễn Thanh H 28.503.000đ (hai mươi tám triệu, năm trăm lẻ ba nghìn đồng);

+ Ông Trần Ngọc L 7.000.000đ (bảy triệu đồng) ;

+ Bà Nguyễn Thị H 2.000.000đ (hai triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

* Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

+ Án phí Hình sự sơ thẩm: Buộc Ngô Viết H và Bùi Kim P mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

+ Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Ngô Viết H phải chịu 1.875.000đ (một triệu, tám trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa biết, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Riêng những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2021/HSST ngày 22/09/2021 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:37/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về