TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 37/2021/HSPT NGÀY 18/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 444/HSPT ngày 09/10/2020 đối với các bị cáo Phan Hoàng A, Lê Thị T, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Thái B, Trần Văn U và Nguyễn Thị N do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 148/2020/HSST ngày 11/08/2020 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Phan Hoàng A (Sỉn); Sinh năm 1986 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Thường trú: Số 47F, tổ 9, khu phố 6, phường E, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Cư trú: Số 37/7B, ấp Đông, xã Q, huyện Z, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 06/12; Nghề nghiệp: Tài xế; Con ông Phan Thành S, con bà Huỳnh Thị C; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 24/8/2006 , Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội: “Bắt, giữ người trái pháp luật” cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm (đã xóa án tích).
Bị cáo tại ngoại - Có mặt.
2. Lê Thị T; Sinh năm 1973 tại tỉnh Quảng Nam; Giới tính: Nữ; Thường trú: Số 59/16C tổ 7, khu phố 9, phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Cư trú: Số 109/13, tổ 9, khu phố 9, phường X , Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Buôn bán; Con ông Lê P, con bà Nguyễn Thị Ư; Chồng: Đoàn Huy L, có 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh 2014; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại - Có mặt.
3. Nguyễn Thị T1; Sinh năm 1972 tại tỉnh Quảng Nam; Giới tính: Nữ; Thường trú: Số 63/4, tổ 8, khu phố 9, phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Thợ may; Con ông Nguyễn Tấn S1, con bà Trần Thị V; Chồng: Phạm Hồng S2, có 01 con sinh năm 2003; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại - Có mặt.
4. Nguyễn Thị Đ; Sinh ngày 1975 tại tỉnh Quảng Nam; Giới tính: Nữ; Thường trú: Số 63/6, tổ 8, khu phố 9, phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Cư trú: Số 109/10 Huỳnh Thị Hai, tổ 8, khu phố 9, phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Nội trợ; Con ông Nguyễn Tấn S1, con bà Trần Thị V; Chồng: Lê Văn H, có 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại - Có mặt.
5. Nguyễn Thái B; Sinh năm 1967 tại tỉnh Quảng Ngãi; Giới tính: Nữ; Thường trú: Thôn 4, xã Đ, huyện L, tỉnh Bình Thuận; Cư trú: Số 13/9, Huỳnh Thị Hai, khu phố 4, phường X, Quận Y Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Nội trợ; Con ông Nguyễn M (chết), con bà Nguyễn Thị N1 (chết); Có 02 con, con lớn sinh năm 1986, con nhỏ sinh năm 1992; Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 24/2/2005, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù giam, về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” bị cáo đã chấp hành xong bản án (đã xóa án).
Bị cáo tại ngoại - Có mặt.
6. Trần Văn U; Sinh năm 1997 tại tỉnh Đồng Tháp; Giới tính: Nam; Thường trú: Số 883, tổ 4, ấp 1, xã M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; Cư trú: Số 2/4A, tổ 12, khu phố 9, phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Con ông Trần Văn G, con bà Lê Thị Q; Vợ: Trần Thị Thùy L, có 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại - Có mặt.
7. Nguyễn Thị N; Sinh năm 1972 tại tỉnh Quảng Nam; Giới tính: Nữ; Thường trú: Không nơi ở nhất định; Cư trú: Số 45/2, tổ 8, khu phố 9, phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 01/12; Nghề nghiệp: Không; Họ tên cha: Không rõ, họ tên mẹ: Không rõ; Chồng: Trần Công T2 (đã ly hôn), có 02 con, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 50 phút, ngày 28/01/2020, Đội Cảnh sát hình sự Công an Quận 12 phối hợp với Công an phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12 kiểm tra tại nhà số 109/13 Huỳnh Thị Hai, tổ 9, khu phố 9, phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12 phát hiện bắt quả tang các đối tượng Phan Hoàng A, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thái B, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T, Trần Văn U, Nguyễn Thị N đang đánh bạc dưới hình thức đánh bài cào (03 lá tính điểm, để tính thắng thua) bằng tiền, sử dụng loại bài tây 52 lá do Phan Hoàng A là người làm cái, các đối tượng Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thái B, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T, Trần Văn U, Nguyễn Thị N tham gia đặt cược, không có thu tiền xâu, số tiền đặt cược thắng thua cao nhất là 100.000 đồng/người/ván.
Khi kiểm tra thu giữ gồm: 01 bộ bài 52 lá, 01 chiếu sử dụng ngồi đánh bạc và tổng số tiền của các đối tượng sử dụng đánh bạc là 6.300.000 đồng. Trong đó, thu của Phan Hoàng A số tiền 1.600.000 đồng đem theo để đánh bạc, chơi thắng 02 ván, được 700.000 đồng, bị thu giữ 2.300.000 đồng. Nguyễn Thị T1 qua kiểm tra có đem số tiền 5.500.000 đồng, T1 sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc, đánh 03 ván, thua 300.000 đồng, bị thu giữ tiền sử dụng đánh bạc 700.000 đồng và tiền cá nhân 4.500.000 đồng. Nguyễn Thái B mang theo số tiền sử dụng đánh bạc là 700.000 đồng, chơi 03 ván thua hết 300.000 đồng, bị thu giữ 400.000 đồng. Nguyễn Thị Đ đem theo số tiền đánh bạc là 1.500.000 đồng, chơi 03 ván, thua 300.000 đồng, bị thu giữ 1.300.000 đồng. Lê Thị Thu T3 đem theo số tiền đánh bạc là 1.200.000 đồng, chơi 03 ván, thắng 300.000 đồng, bị thu giữ 1.500.000 đồng. Trần Văn U đem theo số tiền đánh bạc là 420.000 đồng, U chơi ké 02 ván, thắng 01 ván được 100.000 đồng, thua 01 ván 100.000 đồng, bị tạm giữ số tiền cá nhân 320.000 đồng. Nguyễn Thị N đem theo số tiền đánh bạc là 1.500.000 đồng, N sử dụng số tiền 200.000 đồng đánh bạc, đặt cược 02 ván, thua 200.000 đồng thì nghỉ chơi, bị thu giữ tiền cá nhân 1.300.000 đồng.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 12, Phan Hoàng A, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thái B, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T, Trần Văn U, Nguyễn Thị N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 148/2020/HSST ngày 11/8/2020 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh:
- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt các bị cáo:
1. Phan Hoàng A 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc” 2. Nguyễn Thái B 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc” 3. Nguyễn Thị T1 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc” 4. Nguyễn Thị Đ 06 (sáu)tháng tù về tội “Đánh bạc” 5. Lê Thị T 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc” 6. Trần Văn U 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc” 7. Nguyễn Thị N 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc” Thời hạn tù tính từ ngày bắt các bị cáo chấp hành án. Sau khi xét xử sơ thẩm:
- Ngày 12/8/2020, bị cáo Phan Hoàng A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa bị cáo bổ sung nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo.
- Ngày 14/8/2020, các bị cáo Nguyễn Thái B, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T cùng kháng cáo xin được hưởng mức án Cải tạo không giam giữ. Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T bổ sung nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo, bị cáo Nguyễn Thái B bổ sung nội dung kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
- Ngày 18/8/2020, các bị cáo Trần Văn U và Nguyễn Thị N cùng kháng cáo xin được hưởng mức án Cải tạo không giam giữ. Tại phiên tòa các bị cáo bổ sung nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt hành vi phạm tội, hậu quả tội phạm mà các bị cáo thực hiện đã nhận định:
Bị cáo Nguyễn Thị N mang theo số tiền 1.500.000 đồng, Nga sử dụng 200.000 đồng để đánh bạc, đặt cược 02 ván, thua 200.000 đồng thì nghỉ chơi. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng số tiền 6.300.000 đồng là không có cơ sở. Vì vậy, căn cứ Điều 355; điểm b khoản 1 Điều 358 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy một phần Bản án sơ thẩm số: 148/2020/HSST ngày 11/8/2020 của Tòa án nhân dân Quận 12 đối với bị cáo Nguyễn Thị N để điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung.
Đối với các bị cáo Phan Hoàng A tại phiên tòa không cung cấp tình tiết giảm nhẹ nào mới, bản thân các bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo từng bị xử phạt về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”. Nên xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt mỗi bị cáo 09 tháng tù là phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Hoàng A, giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo Anh.
Đối với bị cáo Nguyễn Thái B mặc dù có nhân thân xấu, tuy nhiên số tiền bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc nhỏ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bình, giảm cho bị cáo 03 tháng tù, tuyên xử bị cáo phải chịu hình phạt 06 tháng tù.
Đối với các bị cáo Lê Thị T, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ và Trần Văn U có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, số tiền đánh bạc nhỏ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Thị T, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ và Trần Văn U, sửa bản án sơ thẩm cho các bị cáo nêu trên được hưởng án treo.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Phan Hoàng A, Nguyễn Thái B, Lê Thị T, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ, Trần Văn U và Nguyễn Thị N khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án Cải tạo không giam giữ hoặc được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Khoảng 11 giờ 50 phút ngày 28/01/2020 tại nhà số 109/13 đường Huỳnh Thị Hai, tổ 9, khu phố 9, phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12 các đối tượng Phan Hoàng A, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thái B, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T, Trần Văn U, Nguyễn Thị N đã sử dụng tổng số tiền 6.300.000 đồng để tham gia đánh bạc dưới hình thức đánh bài cào (03 lá tính điểm, để tính thắng thua) bằng tiền, sử dụng loại bài tây 52 lá. Trong đó:
Phan Hoàng A mang theo số tiền 1.600.000 đồng để đánh bạc, chơi 02 ván, thắng 700.000 đồng, bị thu giữ 2.300.000 đồng.
Nguyễn Thị T1 mang theo số tiền 1.000.000 đồng để đánh bạc, đánh 03 ván, thua 300.000 đồng, bị thu giữ 700.000 đồng.
Nguyễn Thái B mang theo số tiền 700.000 đồng để đánh bạc, chơi 03 ván thua hết 300.000 đồng, bị thu giữ 400.000 đồng.
Nguyễn Thị Đ mang theo số tiền 1.500.000 đồng để đánh bạc, chơi 03 ván, thua 300.000 đồng, bị thu giữ 1.300.000 đồng.
Lê Thị Thu T3 mang theo số tiền là 1.200.000 đồng để đánh bạc, chơi 03 ván, thắng 300.000 đồng, bị thu giữ 1.500.000 đồng.
Trần Văn U mang theo số tiền 420.000 đồng để đánh bạc, chơi 02 ván, thắng 01 ván được 100.000 đồng, thua 01 ván 100.000 đồng, bị tạm giữ số tiền cá nhân 320.000 đồng.
Nguyễn Thị N đem theo số tiền đánh bạc là 1.500.000 đồng, Nga sử dụng số tiền 200.000 đồng đánh bạc, đặt cược 02 ván, thua 200.000 đồng thì nghỉ chơi.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Các bị cáo Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thái B, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T, Trần Văn U, Nguyễn Thị N có đơn kháng cáo xin được hưởng mức án Cải tạo không giam giữ. Bị cáo Phan Hoàng A có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa các bị cáo bổ sung nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo. Kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.
Hội đồng xét xử xét thấy trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Thị N đem theo số tiền đánh bạc là 1.500.000 đồng, Nga sử dụng số tiền 200.000 đồng đánh bạc, đặt cược 02 ván, thua 200.000 đồng thì nghỉ chơi. Như vậy, tại thời điểm cơ quan công bắt quả tang thì bị cáo Nga đã không còn chơi nữa, việc thu giữ số tiền của bị cáo để cộng vào tổng số tiền đánh bạc làm căn cứ buộc tội bị cáo Nga là không có cơ sở. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm hủy một phần Bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Thị N. Xét thấy, việc đại diện Viện kiểm sát đề nghị hủy một phần Bản án hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị N là có căn cứ, nên được chấp nhận.
Đối với các bị cáo Phan Hoàng A tại phiên tòa phúc thẩm không cung cấp thêm tình tiết nào khác ngoài các tình tiết đã được Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét để được giảm nhẹ hình phạt hay được hưởng án treo. Bản thân bị cáo Anh có nhân thân xấu nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Hoàng A, giữ nguyên mức hình phạt mà bản án sơ thẩm đã tuyên.
Đối với bị cáo Nguyễn Thái B có số tiền đánh bạc 700.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 09 tháng tù là có phần nghiêm khắc. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo B, giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
Đối với các bị cáo Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T và Trần Văn U tại phiên tòa mặc dù không xuất trình thêm tình tiết nào mới. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú ổn định, trong thời gian tại ngoại luôn chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Do đó, thiết nghĩ không cần cách ly các bị cáo Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T và Trần Văn U khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho các bị cáo được hưởng án treo cũng đủ thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo và không ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T và Trần Văn U, sửa bản án sơ thẩm, cho các bị cáo T1, Đ, T và U được hưởng án treo.
Căn cứ quy định tại Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Do chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thái B, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T và Trần Văn U nên bị cáo T1, Đ, T và U không phải chịu án phí phúc thẩm.
Do hủy một phần bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Thị N nên bị cáo N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Do không chấp nhận kháng cáp của bị cáo Phan Hoàng A nên bị cáo Bình phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c, e khoản 1 Điều 357; điểm b khoản 1 Điều 358 của Bộ luật tố tụng hình sự:
* Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thái B và bị cáo Phan Hoàng A; giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm số: 148/2020/HSST ngày 11/8/2020 của Tòa án nhân dân Quận 12 đối với các bị cáo Bình và bị cáo Anh.
- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
1. Xử phạt: bị cáo Phan Hoàng A 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
* Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thái B, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T và Trần Văn U; sửa bản án sơ thẩm số: 148/2020/HSST ngày 11/8/2020 của Tòa án nhân dân Quận 12.
- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
2. Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thái B 07 (bảy) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T và Trần Văn U.
3. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T1 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”. Thời gian thử thách là 01 (một) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Thị T1 cho Ủy ban nhân dân phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
4. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Đ 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”. Thời gian thử thách là 01 (một) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Thị Đ cho Ủy ban nhân dân phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
5. Xử phạt: Bị cáo Lê Thị T 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”. Thời gian thử thách là 01 (một) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Lê Thị T cho Ủy ban nhân dân phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
6. Xử phạt: Bị cáo Trần Văn U 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”. Thời gian thử thách là 01 (một) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Trần Văn U cho Ủy ban nhân dân phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
* Hủy một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 148/2020/HSST ngày 11/8/2020 của Tòa án nhân dân Quận 12 đối với bị cáo Nguyễn Thị N.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, để Tòa án nhân dân Quận 12 chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra, truy tố, xét xử lại đối với bị cáo Nguyễn Thị N theo thủ tục chung.
Các bị cáo Nguyễn Thái B, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ, Lê Thị T, Trần Văn U và Nguyễn Thị N không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Bị cáo Phan Hoàng A phải nộp 200.000 (trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Đã giải thích chế định án treo).
Bản án 37/2021/HSPT ngày 18/01/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 37/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về