Bản án 37/2020/HNGĐ-ST ngày 04/08/2020 về ly hôn, con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 37/2020/HNGĐ-ST NGÀY 04/08/2020 VỀ LY HÔN, CON CHUNG

Ngày 04 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện D xét xử công khai vụ án thụ lý số: 113/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2020 về việc “Ly hôn, con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1979; nơi cư trú: Số 16a, Tổ 1, ấp P1, xã S, Huyện D, tỉnh Tây Ninh (có đơn xin xét xử mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng T, sinh năm 1975; nơi cư trú: Số 16a, Tổ 1, ấp P1, Huyện D, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 21 tháng 02 năm 2020 và trong quá trình giải quyết nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Trọng T tự nguyện chung sống từ năm 1999; có đăng ký kết hôn ngày 24/7/1999 tại UBND xã S, Huyện D, tỉnh Tây Ninh. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, mâu thuẫn về tiền bạc, hai vợ chồng thường xuyên gây gổ anh T đánh vợ con, gây áp lực cho nhau, từ đó chị thấy cuộc sống vợ chồng không hợp nhau, không thể tiếp tục chung sống được nên yêu cầu ly hôn anh T.

Về con chung: Có 02 cháu Nguyễn Thanh P, sinh ngày 02/4/2000 hiện đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, riêng con Nguyễn Quốc V; sinh ngày 01/4/2004 hiện đang sống chị. Nay vợ chồng ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc con chung Nguyễn Quốc V, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản riêng, tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Trọng T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thủ tục tố tụng nhưng anh Nguyễn Trọng T vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện D phát biểu ý kiến: Về thủ tục tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Hội đồng xét xử; Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn chị Phạm Thị H đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71, Khoản 1 Điều 228 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn anh Nguyễn Trọng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do xem như từ chối quyền và nghĩa vụ của mình trong vụ án này theo quy định tại điều 70, 72, 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự .

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị H đối với anh Nguyễn Trọng T.

Về con chung: Có 02 cháu Nguyễn Thanh P, sinh ngày 02/4/2000 hiện đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, riêng con Nguyễn Quốc V; sinh ngày 01/4/2004 hiện đang sống chị H. Giao chị H tiếp tục chăm sóc con chung Nguyễn Quốc V, chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản riêng, tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Các đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Phạm Thị H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định tại Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt chị H là đúng quy định pháp luật. Anh Nguyễn Trọng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ theo quy định của pháp luật nhưng anh T vắng mặt không có lý do, căn cứ Khoản 2, Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự nên Hội đồng xét xữ tiến hành xét xử vắng mặt anh T là đúng theo quy định của pháp luật. Anh T phải chịu hậu quả của việc không giao nộp đầy đủ chứng cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định tại Điều 91, Điều 96 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Trọng T tự nguyện chung sống năm 1999, có đăng ký kết hôn ngày 24/7/1999 tại UBND xã S, Huyện D, tỉnh Tây Ninh nên công nhận đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn do chị H và anh T bất đồng về quan điểm sống, mâu thuẫn với nhau vì anh T không lo làm ăn. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 12/2018 đến nay nhưng chị H, anh T vẫn không có giải pháp đoàn tụ. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H, anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh T là có căn cứ.

Về con chung: Cháu Nguyễn Thanh P, sinh ngày 02/4/2000 hiện đã trưởng thành nên không dặt ra giải quyết, giao cháu Nguyễn Quốc V; sinh ngày 01/4/2004 cho chị Phạm Thị H tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Ghi nhận chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Trọng T được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định pháp luật.

[3]Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị Phạm Thị H phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51; 53; 56; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình ; Điều 28, Khoản 4; Điều 147; Khoản 2; Điều 227; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Trọng T.

2. Về con chung: Cháu Nguyễn Thanh P, sinh ngày 02/4/2000 hiện đã trưởng thành nên không đặt ra giải quyết, giao cháu Nguyễn Quốc V; sinh ngày 01/4/2004 cho chị Phạm Thị H tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Ghi nhận chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Trọng T được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tại Chi cục thi hành án dân sự Huyện D, tỉnh Tây Ninh theo biên lai thu số 0004255 ngày 25/02/2020 (đã nộp xong).

Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Trọng T vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2020/HNGĐ-ST ngày 04/08/2020 về ly hôn, con chung

Số hiệu:37/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về