TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 37/2019/HSPT NGÀY 24/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 24 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 450/2018/TLPT-HS ngày 25 tháng 12 năm 2018 đối với các bị cáo Hoàng Văn Q, Dương Văn D, Tôn Thất C về tội “Cố ý gây thương tích”, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án số: 57/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Họ và tên: Hoàng Văn Q; sinh ngày: 09/8/1997, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Thôn X, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch; Việt Nam; con ông Hoàng Văn L, sinh năm 1973 và bà Nguyễn Thị Thu P, sinh năm 1969. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo được tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Dương Văn D; sinh ngày: 25/11/1998, tại thành phố Hà Nội; nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Thôn M, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn T, sinh năm 1973 và bà Phan Thị Lệ T, sinh năm 1979. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo được tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.
3. Họ và tên: Tôn Thất C; sinh ngày: 24/3/1998, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Thôn T, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tôn Thất Q, sinh năm 1970 và bà Đặng Thị L, sinh năm 1972. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo được tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trưa ngày 19/11/2017 Nguyễn Hoàng D đi đám cưới anh họ tại thôn A, xã P, huyện K. Tại đây, D gặp Hoàng Văn Q, Dương Văn D, Tôn Thất C và một số thanh niên khác nên D cầm ly qua bàn mời. Khi mời, D uống hết ly bia rồi mời những người trong bàn uống hết, một số bạn nữ trong bàn không uống nhưng D vẫn ép uống. Thấy D ép các bạn nữ uống, Q lại giật ly bia và xảy ra mâu thuẫn cãi nhau với D, thấy vậy mọi người can ngăn nên tất cả về chỗ ngồi. Tan tiệc, Q điều khiển xe chở D đi trước, khi đến đoạn đường bờ hồ thuộc thôn A, xã P, huyện K, Q và D dừng xe lại đợi D để đánh. Lúc này thấy Q và D đứng lại nên C cũng đứng lại. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, D ra về. Khi đi đến đoạn đường trên, Q chạy ra chặn xe của D lại, Q cầm mũ bảo hiểm ném trúng vào đầu của D 01 cái rồi tiếp tục nhặt mũ bảo hiểm trên đánh vào người D thêm 01 cái nữa làm D ngã xe và người xuống đường. Lúc này, D lao tới ôm vật ngã Q xuống đất, thấy vậy D và C xông vào dùng tay đánh nhiều cái vào người D. Khi thấy D đứng dậy để chống trả thì D nhặt 01 cục đá ở ven đường ném 01 phát trúng vào đầu D. Một số người đi đường nhìn thấy đánh nhau nên vào can ngăn rồi đưa D đi Bệnh viện điều trị.
Tại bản kết luận pháp y thương tích số 97/PY-TgT ngày 28/12/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: anh Nguyễn Hoàng D bị vết thương đầu, vỡ lún sọ với tỷ lệ thương tích là 16%. Vật tác động: Cứng, tày.
Tại bản kết luận pháp y thương tích số 74/18/TgT ngày 04/7/2018 của Phân viện pháp y Quốc gia tại Tp Hồ Chí Minh kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể từng thương tích của anh Nguyễn Hoàng D là: sẹo thái dương phải 01%, lõm hai bản sọ thái dương phải 16%. Tổng tỷ lệ thương tích 17%. Vật tác động: Cứng, tày.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 57/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Tuyên bố: Các bị cáo Hoàng Văn Q, Dương Văn D, Tôn Thất C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Áp dụng khoản 3 Điều 7; điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội:
Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Áp dụng khoản 3 Điều 7; điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội:
+ Xử phạt bị cáo Dương Văn D 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
+ Xử phạt bị cáo Tôn Thất C 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo.
- Ngày 25/11/2018, bị cáo Dương Văn D làm đơn kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm số 57/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
- Ngày 26/11/2018, bị cáo Hoàng Văn Q và bị cáo Tôn Thất C làm đơn kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm số: 57/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Hoàng Văn Q, Dương Văn D và Tôn Thất C về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt đối với các bị cáo là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra. Tại cấp phúc thẩm các bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ để chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 57/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng về phần hình phạt của các bị cáo.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì về hành vi phạm tội của mình và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ để kết luận, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Hoàng Văn Q, Dương Văn D và Tôn Thất C về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của các bị cáo, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q 02 năm 03 tháng tù; Dương Văn D 01 năm 09 tháng tù và Tôn Thất C 01 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 134 BLHS là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Tại cấp phúc thẩm các bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo cho các bị cáo. Vì vậy, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 57/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng về phần hình phạt.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận, nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Không chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo Hoàng Văn Q, Dương Văn D và Tôn Thất C.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 57/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng về phần hình phạt.
- Áp dụng khoản 3 Điều 7; điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội:
Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Áp dụng khoản 3 Điều 7; điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội:
+ Xử phạt bị cáo Dương Văn D 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
+ Xử phạt bị cáo Tôn Thất C 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Hoàng Văn Q, Dương Văn D và Tôn Thất C (mỗi bị cáo) phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 37/2019/HSPT ngày 24/01/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 37/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về