Bản án 37/2019/HNGĐ-ST ngày 19/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỒ SƠN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

 BẢN ÁN 37/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 19 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Đồ Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 129/2019/TLST-HNGĐ ngày 13-9-2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01-11-2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Thanh N, sinh năm 1991; nơi cư trú: Tổ dân phố B, phường B, quận Đ, thành phố Hải Phòng; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Hoàng Văn L, sinh năm 1989; nơi cư trú: Tổ dân phố B, phường B, quận Đ, thành phố Hải Phòng; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 06-9-2019, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Đặng Thị Thanh N trình bày: Chị xây dựng hạnh phúc với anh Hoàng Văn L trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Bàng La, quận Đồ Sơn vào ngày 16-7-2013. Vợ chồng chung sống hòa thuận đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng với nhau về quan điểm sống, bất đồng với nhau về phát triển kinh tế gia đình, nghi ngờ nhau sống không chung thủy nên thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Anh L ham chơi theo bạn bè, không quan tâm gì đến vợ con.

Mặc dù vợ chồng đã nhiều lần cố gắng khắc phục, hai bên gia đình khuyên giải nhưng không thành. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 4- 2019 đến nay và không còn quan tâm gì đến nhau. Nay, chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, xin được ly hôn với anh L.

Về con chung: Chị và anh L có 02 con chung là Hoàng Thị Gia H, sinh ngày 17-7-2013 và Hoàng Gia Thành Đ, sinh ngày 30-5-2017. Chị đề nghị được nuôi hai con chung. Hiện nay, anh L đang bị Công an huyện Kiến Thụy bắt giam về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên chị không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng tiền nuôi con. Chị xin rút yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi mỗi con là 2.000.000 đồng/tháng đến khi các con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại biên bản xác minh và đơn đề nghị, bị đơn là anh Hoàng Văn L trình bày: Anh thống nhất về điều kiện, hoàn cảnh kết hôn, cũng như nguyên nhân mâu thuẫn tình cảm vợ chồng đúng như chị N đã trình bày. Anh thừa nhận trong thời gian vừa qua có lỗi với chị N, anh biết mình đã sai, rất hối hận. Anh mong chị N bỏ qua mọi chuyện để vợ chồng có cơ hội quay về đoàn tụ. Trường hợp, chị N vẫn quyết định ly hôn thì anh đề nghị Tòa án giải quyết theo yêu cầu của chị N.

Về con chung: Anh và chị N có 02 con chung như chị N trình bày. Ly hôn anh đề nghị Tòa án giao hai con chung là Hoàng Thị Gia H và Hoàng Gia Thành Đ cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hiện anh chưa có điều kiện, sau này anh sẽ có trách nhiệm với các con.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Toà án giải quyết.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Đồ Sơn tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ vụ của mình theo đúng quy định pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án đã thụ lý đúng thẩm quyền và xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn.

Về hôn nhân, mâu thuẫn giữa chị N và anh L đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N được ly hôn anh L; về con chung, giao 02 con chung là Hoàng Thị Gia H và Hoàng Gia Thành Đ cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng; không xem xét, giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung.

Chị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn là chị Đặng Thị Thanh N khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con với anh Hoàng Văn L tại Tòa án nhân dân quận Đồ Sơn. Bị đơn là anh L có nơi cư trú tại phường Bàng La, quận Đồ Sơn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.

[2] Về việc rút một phần yêu cầu khởi kiện: Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, chị N xin rút yêu cầu anh L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung, mỗi con là 2.000.000 đồng/tháng đến khi các con đủ 18 tuổi. Việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện là hoàn toàn tự nguyện và không trái với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[3] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt nhưng đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị N và anh L.

Về hôn nhân:

[4] Chị N và anh L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Bàng La, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng vào ngày 16-7- 2013 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Chị N và anh L thống nhất trình bày: Anh chị xây dựng hạnh phúc trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Bàng La, quận Đồ Sơn vào ngày 16-7-2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống cùng gia đình anh L tại tổ dân phố B, phường B, quận Đ. Vợ chồng chung sống hòa thuận đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Nguyên nhân là do vợ chồng nghi ngờ nhau sống không chung thủy, anh L ham chơi theo bạn bè, thiếu sự quan tâm đến vợ con và gia đình. Mặc dù hai bên gia đình nhiều lần khuyên giải nhưng không thành. Hiện nay, anh L đang bị Công an huyện Kiến Thụy bắt giam về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Lời khai của chị N, anh L phù hợp với trình bày của gia đình anh chị và xác nhận của chính quyền địa phương nơi anh chị cư trú. Chị N thừa nhận quan hệ hôn nhân của anh chị trên thực tế đã không còn tồn tại, vợ chồng mâu thuẫn kéo dài nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh L.

[6] Xét thấy, chị N và anh L đã không còn yêu thương, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc gia đình; không chung sống với nhau; không tôn trọng và giữ gìn danh dự cho nhau; vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng được quy định tại Điều 19 và Điều 21 của Luật Hôn nhân và gia đình. Như vậy, mâu thuẫn giữa chị N và anh L đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được cần căn cứ theo khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N.

[7] Về con chung: Chị N và anh L có 02 con chung là Hoàng Thị Gia H, sinh ngày 17-7-2013 và Hoàng Gia Thành Đ, sinh ngày 30-5-2017. Anh chị thống nhất đề nghị giao hai con chung cho chị N trực tiếp nuôi và không yêu cầu giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử, xét: Việc nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con chung hai bên cha mẹ đều có tình cảm, quyền và trách nhiệm như nhau; để đảm bảo sự ổn định về mặt tâm lý, sự phát triển về mọi mặt của con, cũng như thỏa thuận về việc nuôi con khi ly hôn giữa anh chị nên cần áp dụng khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình giao 02 con chung H và Đ cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

[8] Về tài sản chung: Chị N và anh L không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí: Chị N là nguyên đơn nên phai chiu an phi dân sự sơ thâm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[10] Về quyền kháng cáo: Chị N và anh L có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 244, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Đặng Thị Thanh N được ly hôn anh Hoàng Văn L.

2. Về con chung:

2.1. Giao hai con chung là Hoàng Thị Gia H, sinh ngày 17-7-2013 và Hoàng Gia Thành Đ, sinh ngày 30-5-2017 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con chung chị N và anh L tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Hoặc cho đến khi chị N và anh L có sự thay đổi khác về người trực tiếp nuôi con, về cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

2.2. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2.3. Đình chỉ yêu cầu của chị N về việc yêu cầu anh L cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

3. Về án phí: Chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0007067 ngày 13-9-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng; chị N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị N và anh L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HNGĐ-ST ngày 19/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:37/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đồ Sơn - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về