Bản án 37/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 37/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 13 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 195/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 09 năm 2019 về việc tranh chấp Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2019/QĐXX-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Nh, sinh năm 1990 - Có mặt tại phiên tòa

Nơi ĐKHKTT: Tổ A, phường HT, thành phố TN, tỉnh TN.

Chỗ ở hiện nay: Tổ B, phường TL, thành TN, tỉnh TN.

2. Bị đơn: Anh Trần Xuân T, sinh năm 1989 - Vắng mặt tại phiên tòa

Nơi cư trú: Tổ A (trước là tổ SS), thị trấn TC, huyện ĐH, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1]. Trong đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai, cùng các tài liệu, giấy tờ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Đỗ Thị Nh trình bày:

Chị và anh Trần Xuân T kết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn TC, huyện ĐH, tỉnh TN trên cơ sở tự nguyện và được tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau được khoảng 02 tháng thì anh Trần Xuân T bị bắt và sau đó phải đi cải tạo 07 năm về tội tàng trữ sử dụng trái phép chất ma túy. Trong suốt quá trình anh T đi chấp hành án chị tự sinh con, chăm sóc con nhưng vẫn thường xuyên thăm nom tiếp tế cho chồng. Tuy nhiên, sau khi anh T về vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian thì xảy ra rất nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không còn chung chí hướng, bản thân anh T cũng không tu chí làm ăn, mặc dù chị đã cho chồng nhiều cơ hội nhưng không thay đổi. Do mâu thuẫn quá trầm trọng nên vợ chồng đã sống ly thân được 01 năm, từ khi ly thân hai bên không còn quan tâm và cũng ít khi liên lạc với nhau, anh T hiện làm gì, ở đâu chị cũng không rõ.

Nay, chị xác định cuộc hôn nhân giữa chị và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung là Trần Hoàng Hà M, sinh ngày 03/11/2012, hiện đang sống cùng với chị. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con vì hiện tại chị có nhà ở và công việc ổn định, thu nhập khoảng 10 triệu đồng/tháng, đủ điều kiện để nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ đã thực hiện việc tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng cho anh Trần Xuân T theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, anh T không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án theo quy định; do vậy, Tòa án không xác định được lời khai của anh T và không tiến hành hòa giải được.

[3]. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ về tình trạng hôn nhân giữa anh T và chị Nh tại gia đình và địa phương nơi cư trú của anh T. Kết quả xác định: Sau khi kết hôn vợ chồng anh T và chị Nh sống riêng ở ngoài thành phố TN, tới gần cuối năm 2012 anh T bị bắt và sau đó phải đi cải tạo 07 năm. Năm 2017 anh T được giảm án về địa phương, vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian ngắn rồi không sống cùng với nhau nữa.

[4]. Tại biên bản làm việc xác định nguyện vọng của con chung ngày 27/9/2019, cháu Trần Hoàng Hà M con chung của các đương sự xác định nguyện vọng của cháu sau khi bố mẹ ly hôn cháu muốn được sống với mẹ.

[5]. Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết vụ án. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa, nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng các Điều 21, 28, 35, 147, 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quyết định:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Đỗ Thị Nh, cho chị Đỗ Thị Nh được ly hôn với anh Trần Xuân T.

+ Về con chung: Giao con chung là Trần Hoàng Hà M, sinh ngày 03/11/2012 cho chị Đỗ Thị Nh trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Về cấp dưỡng: Không xem xét, giải quyết vì chị Nh chưa có yêu cầu.

+ Về tài sản chung, công nợ chung: Không xem xét giải quyết vì đương sự không yêu cầu.

+ Án phí: Chị Đỗ Thị Nh phải nộp 300.000 đồng tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

 Đây là vụ án tranh chấp Hôn nhân và gia đình giữa nguyên đơn chị Đỗ Thị Nh, nơi cư trú: phường HT, thành phố TN, tỉnh TN với bị đơn anh Trần Xuân T, nơi cư trú: thị trấn TC, huyện ĐH, tỉnh TN. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ và tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng đối với anh Trần Xuân T theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật tố tụng dân sự; tuy nhiên, anh T không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án; do vậy, vụ án không tiến hành hòa giải được, phải đưa ra xét xử công khai. Tại phiên tòa hôm nay anh T vắng mặt lần thứ hai, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Trần Xuân T.

[2]. Về nội dung vụ án:

+ Quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị Nh và anh Trần Xuân T kết hôn năm 2012 có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn TC, huyện ĐH, tỉnh TN trên cơ sở tự nguyện và được tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Vì vậy, đây là cuộc hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau được khoảng 02 tháng thì anh T phải đi chấp hành án 07 năm tù. Sau khi anh T chấp hành án xong trở về địa phương, hai vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian thì xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân theo phía chị Nh trình bày do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh T không tu chí làm ăn. Do mâu thuẫn trầm trọng nên vợ chồng đã sống ly thân được 01 năm nay, kể từ khi ly thân hai bên không còn quan tâm và cũng ít liên lạc với nhau. Bản thân anh T biết việc chị Nh khởi kiện ly hôn và Tòa án đang tiến hành giải quyết vụ án nhưng không quan tâm, điều đó cho thấy anh T không còn thiện chí và mong muốn giữ gìn và níu kéo cuộc hôn nhân của mình.

Qua đó, Hội đồng xét xử xét thấy cuộc hôn nhân hiện nay giữa chị Đỗ Thị Nh và anh Trần Xuân T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Đỗ Thị Nh là có cơ sở chấp nhận, cho chị Đỗ Thị Nh được ly hôn với anh Trần Xuân T là phù hợp với các quy định của pháp luật.

+ Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung là Trần Hoàng Hà M, sinh ngày 03/11/2012, hiện tại con chung đang sống cùng với mẹ và có nguyện vọng muốn được tiếp tục sống với mẹ sau khi bố mẹ ly hôn. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị Nh đều có nguyện vọng muốn được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy, hiện tại con chung đang sống cùng chị Nh, chị Nh có nhà ở và có thu nhập ổn định đảm bảo các điều kiện để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung sau khi vợ chồng ly hôn thì cần giao con chung là Trần Hoàng Hà My cho chị Nh trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho tới khi con thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc tới khi có sự thay đổi khác.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nh chưa có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

+ Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không có yêu cầu. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

[3]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chị Đỗ Thị Nh phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 174, Điều 175, Điều 177, Điều 179, Điều 227, Điều 228, Điều 264, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Chấp nhận đơn khởi kiện ly hôn của chị Đỗ Thị Nh, cho chị Đỗ Thị Nh được ly hôn với anh Trần Xuân T.

2. Về con chung: Áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Giao con chung là Trần Hoàng Hà M, sinh ngày 03/11/2012 cho chị Đỗ Thị Nh trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho tới khi con thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc tới khi có sự thay đổi khác. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung đối với anh Trần Xuân T vì chị Đỗ Thị Nh chưa có yêu cầu.

Anh Trần Xuân T có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng cho con chung.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác khi có yêu cầu.

4. Án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Đỗ Thị Nh phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước. Được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0016436 ngày 06/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Chị Đỗ Thị Nh đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt chị Đỗ Thị Nh, vắng mặt anh Trần Xuân T. Báo cho chị Nh biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:37/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về