Bản án 37/2018/HSST ngày 12/02/2018 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 37/2018/HSST NGÀY 12/02/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 12 tháng 02 năm 2018 tại trụ sở; Toà án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 257/2017/HSST ngày 06-12-2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2018/HSST-QĐ ngày 19-01-2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2018/HSST-QĐ ngày 01-02-2018 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 01/2018/TB ngày 07-02-2018 đối với bị cáo: Trần Văn C, sinh năm 1990 tại thành phố Hải Dương; ĐKHKTT và cư trú tại: số A phố M, phường P, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; dân tộc: Kinh ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 07/12; con ông Trần Văn C1, sinh năm 1970 (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1968; có vợ là Bùi Thị Th, sinh năm 1992 và 02 con.

Tiền án, tiền sự: Chưa.

Nhân thân: Bản án số 143/HSST ngày 09-8-2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xử phạt Trần Văn C 21 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Bị cáo C bị tạm giữ từ ngày 24-8-2017 đến ngày 27-8-2017; hiện đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 76 ngày 27-8-2017 của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Dương. Có mặt.

- Người bị hại: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1989; cư trú tại: số N phố V, khu 4, phường T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt - Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Chị Bùi Thị Th, sinh năm 1992. Cư trú tại: Số A phố M, phường P, thành phố Hải Dương.

2. Anh Đoàn Văn P, sinh năm 1997; Cư trú tại: Khu A, phường T, thành phố Hải Dương.

3. Anh Nguyễn Tiến H, sinh năm 1993; Cư trú tại: số B đường N, phường T Bình, thành phố Hải Dương.

4. Anh Vũ Minh Đ, sinh năm 1997; Cư trú tại: Số A đường T, phường Quang Trung, thành phố Hải Dương.

5. anh Trần Mạnh D, sinh năm 1987; Cư trú tại: số C phố V, phường T Bình, thành phố Hải Dương.

6. anh Trần Hữu M, sinh năm 1989; Cư trú tại: số X phố P, phường Hải Tân, thành phố Hải Dương.

7. anh Nguyễn Thanh H, sinh năm 1985; Cư trú tại: số S đường T, phường Bình Hàn, thành phố Hải Dương.

Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30’ ngày 24-12-2016, anh Nguyễn Văn T và anh Đoàn Văn P, anh Nguyễn Tiến H, anh Vũ Minh Đ, anh Trần Thế L đi chơi Noel thì gặp chị Bùi Thị Th (là vợ của Trần Văn C) đứng ở bãi trông giữ xe sát bùng binh ngã 6 Tam Giang thuộc phường Trần Hưng Đạo, thành phố. Hải Dương. Do trước đó chị Th có vay của anh T số tiền 30.000.000đ. Anh T nhiều lần tìm chị Th để đòi nợ nhưng không gặp nên khi gặp chị Th hai bên có xảy ra cãi vã nhau, anh T bảo chị Th gọi cho Trần Văn C là chồng của chị Th đến nói chuyện. Chị Th gọi điện thoại thông báo cho C biết việc chị Th và anh T cãi nhau, sau đó chị Th đi nhờ xe về nhà mẹ đẻ ở số 6 Trần Phú, phường Trần Phú, thành phố Hải Dương. Do bực tức C đã lấy ở nhà 01 T tuýp sắt đầu có dao bầu dài khoảng 1,5m mục đích ra tìm gặp anh T nói chuyện. C đi bộ ra Trung tâm thương mại Hải Dương (cũ) để tìm xe ôm thì gặp bạn tên P (là bạn quen biết xã hội không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể) và 03 nam T niên (là bạn của P) đi bằng 2 xe mô tô nên C đã nhờ chở ra khu vực ngã 6 Tam Giang. Khi đến nơi, C nhìn thấy anh T đang ngồi trên 01 chiếc xe mô tô dựng ở trong bãi xe, còn anh Đ, anh , anh L, anh P thì đứng ở bên đường đối diện bãi gửi xe nên C đã cầm T tuýp sắt đầu có dao bầu bằng 2 tay chém một nhát về phía anh T. Anh T đưa tay trái ra đỡ thì bị lưỡi dao bầu chém trúng ở mặt ngoài khuỷu tay trái gây gãy hở lồi cầu ngoài, đài quay trái, đầu xương trụ trái, đứt khối cơ duỗi tay trái. Lúc này, P và 3 người nam T niên đi cùng cầm hung khí đuổi đánh nhóm bạn của anh T nhưng những người này đều bỏ chạy nên không có ai bị thương tích gì. Anh T chạy về phía đường Thanh Niên, C đuổi theo thì gặp anh Nguyễn Thanh H (là bạn của C) đi ngang qua ngăn cản lại nên C không đuổi nữa. Anh T được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương, sau đó chuyển đến Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 điều trị đến ngày 29/12/2016 thì ra viện.

Trên đường về, C đã vứt cầm T tuýp sắt đầu có dao bầu trên đường, không xác định được vị trí nên không thu giữ được.

Sau khi phạm tội Trần Văn C vắng mặt tại địa phương, Cơ quan Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Dương đã ra Quyết định truy nã đối với C. Ngày 24-8-2017, C đến Phòng cảnh sát hình sự, Công an tỉnh Hải Dương đầu thú.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 12/TgT ngày 10-02-2017 của Phòng giám định pháp y - Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương kết luận: Vết thương mặt ngoài khuỷu trái gây gãy hở lồi cầu ngoài, đài quay trái, đầu trên xương trụ trái, đứt khối cơ duỗi tay trái, đã mổ xử lý. Hiện còn phương tiện kết hợp xương, vận động cẳng tay trái hạn chế ít, sẹo vết thương, mổ KT 9,5x0,1cm. Tổn thương trên có đặc điểm do vật sắc gây nên. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 31%.

Tại bản cáo trạng số 253/VKS-HS ngày 30-11-2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương truy tố Trần Văn C về tội "Cố ý gây thương tích" theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo C khai nhận hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến gì về bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 12/TgT ngày 10-02-2017 đối với thương tích của anh Nguyễn Văn T.

Người bị hại anh Nguyễn Văn T xin xét xử vắng mặt, nhất trí bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 12/TgT ngày 10-02-2017 đối với thương tích của bản thân; xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không đề nghị bồi thường gì thêm về trách nhiệm dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn C từ 36 tháng đến 39 tháng tù, được trừ 3 ngày tạm giữ, thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97 ngày 25-11-2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo C phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Trần Văn C nói lời sau cùng không có ý kiến tranh luận gì đối với luận tội của Kiểm sát viên và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, nhận định của Hội đồng xét xử như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Văn C tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại; người làm chứng tại cơ quan điều tra; biên bản kết luận giám định pháp y; biên bản xác định hiện trường; biên bản nhận dạng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 21h30 ngày 24/12/2016 tại bãi trông xe tự phát gần bùng binh ngã 6 Tam Giang trên đường Trần Hưng Đạo, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Dương; Trần Văn C đã dùng thanh tuýp sắt gắn dao bầu dài khoảng 1,5m chém 01 nhát vào tay trái của anh Nguyễn Văn T gây ra vết thương dài 10cm ở mặt ngoài khuỷu trái gây hở lồi cầu ngoài, đài quay trái, đầu trên đương trụ trái, đứt khối cơ duỗi tay trái. Hậu quả anh T bị tổn thương cơ thể do thương tích gây ra tỷ lệ 31%. Hành vi đó của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”. Mặc dù thương tích bị cáo gây ra cho anh Nguyễn Văn T là 31%, nhưng khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã dùng thanh tuýp sắt gắn dao bầu tự tạo là hung khí nguy hiểm, trước đó giữa C và anh T không có mâu thuẫn gì nhưng C cố ý gây thương tích cho anh T nên C phải chịu tình tiết dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự. Vì vậy, với hành vi và hậu quả nêu trên bị cáo C phải chịu tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 nên xác định quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương đối với bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2018 thì hành vi phạm tội của Trần Văn C chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự; so với khoản 3 Điều 104 BLHS 1999 thì điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn. Do đó, HĐXX sẽ xem xét, áp dụng theo hướng có lợi đối với bị cáo theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm khách thể là quyền sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự an ninh tại địa phương và xã hội. Hành vi đó của bị cáo thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy, cần xử mức án nghiêm đối với bị cáo.

[2] Xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu đã bị Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 21 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.Về tình tiết tăng nặng TNHS: không có. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn C đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho người bị hại; người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; sau khi phạm tội vắng mặt tại địa phương sau đó đã ra đầu thú khai nhận về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Căn cứ nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tính chất, mức độ hành vi phạm tội, HĐXX xét thấy cần thiết xử phạt bị cáo hình phạt tù nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình, xã hội. Tuy nhiên, bị cáo C không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Trần Văn C đã tự nguyện bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho người bị hại, anh Nguyễn Văn T không đề nghị bồi thường gì thêm, nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 T tuýp sắt đầu có dao bầu dài khoảng 1,5m C dùng chém anh T, C đã vứt trên đường bỏ chạy, hiện không xác định được vị trí; CQĐT Công an thành phố Hải Dương không thu giữ được nên không có căn cứ xem xét, xử lý.

[5] Về án phí: Bị cáo Trần Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Quá trình điều tra và tại phiên tòa C xác định không biết P và 3 đối tượng khác ở đâu. Theo các tài liệu trong hồ sơ xác định khi bị cáo C gây thương tích cho anh T thì P và 03 đối tượng khác có hành vi dùng tuýp sắt đầu có gắn dao bầu, dao quắm đuổi đánh các anh Đoàn Văn P, Nguyễn Tiến H, Vũ Minh Đ, Trần Thế L ở khu vực bùng binh ngã 6 Tam Giang là nơi công cộng có nhiều người qua lại xảy ra thời điểm đêm Noel gây hậu quả nghiêm trọng (anh T bị tổn thương cơ thể tỷ lệ 31%). Cơ quan CSĐT Công an TP. Hải Dương đã khởi tố vụ án Gây rối trật tự công cộng để điều tra làm rõ, tiếp tục xác minh lai lịch, nhân thân của các đối tượng trên để xử lý sau theo quy định của pháp luật.

Đối với chị Bùi Thị Th chỉ gọi điện thông báo cho C biết việc chị Th và anh T cãi nhau, không bàn bạc, rủ rê lôi kéo, không biết việc C đến đánh anh T nên không đề cập xử lý là phù hợp.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Dương, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2.Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn C 36 (Ba mươi sáu) tháng tù, được trừ 3 ngày tạm giữ từ ngày 24-8-2017 đến ngày 27-8-2017, còn phải chấp hành 35 tháng 27 ngày tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97 ngày 25-11-2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Văn C phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Trần Văn C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2018/HSST ngày 12/02/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:37/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về