Bản án 37/2018/HS-PT ngày 19/06/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 37/2018/HS-PT NGÀY 19/06/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước tiến hành xét xử phúc thẩm công khai Vụ án Hình sự thụ lý số 29/2018/HSPT ngày 13 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn T do có kháng cáo đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 14/2018/HSST ngày 02 tháng 3 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước.

Bị cáo kháng cáo: Bị cáo Nguyễn T, sinh năm 1969, tại Quảng Ngãi; nơi cư trú và chỗ ở hiện nay: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa 6/12; quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, con ông Nguyễn T1, sinh năm 1933 và bà Đào Thị L, sinh năm 1932; bị cáo có vợ và 02 con; tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/9/2017 cho đến 14/11/2017. (Có mặt)

Người bào chữa cho bị cáo bà Mai Thị Kim Sa – Luật sư văn phòng luật sư Mai Thị Kim Sa – Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)

Bị hại kháng cáo: Bà Đinh Thị D, sinh năm 1968 (Có mặt). Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 12/7/2017, Nguyễn T sau khi uống rượu ở nhà ông Lê Văn S về đến nhà tại Thôn Đ, xã Đ, huyện B thì giữa bị cáo T và vợ là bà Đinh Thị D có xảy ra mâu thuẫn, bị cáo T tức giận lấy 01 cái kéo bằng kim loại màu đen, cán nhựa để trên kệ bếp đi đến chỗ bà D, đứng đối diện đâm vào vùng bụng bà D một nhát rồi vứt kéo ra phía sau nhà rồi vào giường nằm ngủ, bà D được hàng xóm đưa đi cấp cứu.

Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 189/102017/TGT ngày 07/9/2017 của Trung tâm giám định Pháp y – Y khoa tỉnh Bình Phước kết luận: Tỷ lệ tồn thương trên cơ thể của Đinh Thị D do thương tích gây nên hiện tại là 31%.

Không đồng ý với kết luận giám định trên, ngày 15/10/2017 bị cáo Nguyễn T có làm đơn yêu cầu giám định lại. Tại kết luận giám định pháp y về thương tích số 130/TgT ngày 30/11/2017 của Phân viện pháp y quốc gia tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tỷ lệ tổn thương trên cơ thể của Đinh Thị D do thương tích gây nên hiện tại là 34%.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2018/HSST ngày 02/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước quyết định:“ Tuyên bố bị cáo Nguyễn T phạm tội:“Cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm c, khoản 3 Điều 134, các Điểm b,s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 của Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt Bị cáo Nguyễn T 03 năm tù,thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được khấu trừ vào thời hạn tạm giam từ ngày 28/9/2017 đến ngày 14/11/2017; ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/3/2018, bị cáo Nguyễn T kháng cáo xin được hưởng án treo và người bị hại Đinh Thị D có đơn kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án hình sự sơ thẩm đã kết luận, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng án treo.

Bị hại vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo.

Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 355, Điều 356 không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Nguyễn T và kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo của người bị hại, giữ nguyên quyết định về hình phạt của Bản án số 14/2018/HSST ngày 02/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện B.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn T đề nghị Hội đồng xét xử: Xem xét thêm nhân thân của bị cáo, bị cáo là lao động chính trong gia đình, cha và ông của bị cáo là người có công với cách mạng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Xét kháng cáo của bị cáo, người bị hại là trong thời hạn luật định theo các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được Hội đồng xét xử xem xét.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện B, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Tòa án nhân dân huyện B trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Bị cáo Nguyễn T thừa nhận hành vi phạm tội như Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm nhận định. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng của vụ án và phù hợp với kết luận giám định số 130/17/TgT ngày 30/11/2017 của Phân viện pháp y Quốc gia tại thành phố Hồ Chí Minh và các chứng khác của vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ ngày 12/7/2017 do có mâu thuẫn với vợ là bà Đinh Thị D, bị cáo T đã dùng 01 cái kéo bằng kim loại màu đen đâm vào bụng bà D. Hậu quả bà D bị thương tích 34% sức khỏe. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác. Trong quá trình thực hiện tội phạm, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hoàn toàn nhận thức rõ và làm chủ được hành vi nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về “Tội cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Nguyễn T và kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo của người bị hại Đinh Thị D, Hội đồng xét xử xét thấy:

Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo về “Tội cố ý gây thương tích” là đúng pháp luật. Đã căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và xử phạt bị cáo 03 năm tù là tương xứng với hành vi phạm tội. Tại cấp phúc thẩm bị cáo và bị hại có cung cấp thêm được các tình tiết mới là gia đình bị cáo có công với cách mạng. Tuy nhiên, mức án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như không chấp kháng cáo của bị hại. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo phải nộp 200.000đ. Án phí hình sự phúc thẩm bị hại không phải chịu. 

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Văn T.

Không chấp nhận kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo của người bị hại Đinh Thị D.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2018/HSST ngày 02 tháng 3 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước.

[2] Tuyên bố bị cáo Nguyễn T phạm “Tội cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134 và các điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cao Nguyễn T 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được khấu trừ vào thời hạn tạm giam từ ngày 28/9/2017 đến ngày 14/11/2017.

[3] Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo phải chịu 200.000đ. Bị hại không phải chịu.

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2018/HS-PT ngày 19/06/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:37/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về