TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 37/2017/HS-ST NGÀY 27/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 11 năm 2017, tại hội trường nhà văn hóa tổ 12 thị trấn ViệtQuang, huyện Bắc Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lýsố: 28/2017/TLST-HS ngày 25/10/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:34/2017/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2017đối với các bị cáo:
1. Lục Văn C (tên gọi khác Lục Xuân C), sinh ngày 10/8/1981 tại huyện B, tỉnh H. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã V, huyện B, tỉnh H; chỗ ở trước khi bị bắt: Thôn T, xã V, huyện B, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 03/12; dân tộc: Ngạn; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lục Văn M, sinh năm 1952 và bà La Thị P, sinh năm 1958; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 04/2006/HSST, ngày21/02/2006 của Tòa án nhân dân huyện Vị Xuyên xử phạt bị cáo 15 tháng tù về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bị cáo bị bắt từ ngày 17/7/2017.“Hôm nay có mặt tại phiên tòa”.
2. Lê Chiến T, sinh ngày 23/02/1986 tại huyện H, tỉnh T. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã T, huyện H, tỉnh T; chỗ ở hiện nay: Thôn P, xã Q, huyện B, tỉnh H; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hữu G, sinh năm 1961 và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1962; có vợ Lý Thị S, sinh năm 1989, có 02 con lớn nhất sinh năm 2014 và nhỏ nhất sinh năm 2016: tiền án, tiền sự: Không; Hiện đang được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.“Hôm nay có mặt tại phiên tòa”.
- Bị hại: Anh Nguyễn Cơ T1, sinh năm 1983, địa chỉ: Thôn M, xã K, huyện B, tỉnh H “Vắng mặt”.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Bùi Thị O, sinh năm 1970, địa chỉ: Thôn P, xã Q, huyện B, tỉnh H “Vắng mặt”
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lục Văn C không có nghề nghiệp ổn định, thường xuyên đi lang thang. Chiều ngày 13/7/2017, C một mình điều khiển xe máy BKS 18Z8-2894 do C mượn của chị Bùi Thị O đến nhà chị Nguyễn Thị H tại Thôn M, xã K, huyện B, tỉnh H để chơi ở nhà chị H. Đến khoảng 2 giờ sáng ngày 14/7/2017, C dậy một mình điều khiển xe máy BKS 18Z8-2894 đi theo quốc lộ 279 hướng Kim Ngọc – Liên Hiệp để tìm xem có chỗ nào sơ hở thì trộm cắp tài sản, khi đi đến cách cổng UBND xã K, huyện B khoảng 10m, C dừng lại quan sát qua ánh sáng bóng đènđiện treo ở cổng UBND xã hắt ra, C nhìn thấy trước cửa nhà anh Nguyễn Cơ T1 có01 bộ máy bơm xịt rửa xe gồm: 01 mô tơ điện bằng kim loại, công suất 2,2 KW, màu trắng xám, trên vỏ có in chữ TOÀN PHÁT; 01 đầu máy nén khí bằng kim loại màu đỏ, trên vỏ máy có chữ GENFOR GF230; 01 dây cô loa nối trục mô tơ với máy nén khí; 01 đoạn dây dẫn nước đầu vào bằng nhựa màu vàng dài 2m36cm; 01 đoạn dây dẫn nước đầu ra màu vàng dài 10m. C nhìn thấy nhà anh T1 đã tắt điện, nghĩ mọi người đã ngủ, C nảy sinh ý định trộm cắp bộ máy bơm xịt rửa xe nên C dựng xe máy BKS 18Z8-2894 ở lề đường và cầm cái kìm bằng kim loại để ở giá xe từ trước rồi đi bộ vào sân phía trước nhà anh T1, C dùng kìm cắt dây điện nối với mô tơ, cuốn 02 đoạn ống dẫn nước bằng nhựa đầu vào, đầu ra đặt lên trên bộ máy bơm, sau đó C dùng hai tay bê bộ máy bơm xịt rửa xe cùng hai đoạn ống dẫn nước ra lề đường đặt lên yên xe máy BKS 18Z8-2894 rồi dùng một đoạn dây cao su màu đen do C mang đi từ trước buộc bộ máy bơm lại, sau đó C điều khiển xe chở bộ máy bơm xịt rửa xe cùng 02 đoạn dây dẫn nước đi theo hướng Kim Ngọc – Pắc Háđến nhà Lê Chiến T tại Thôn P, xã Q, huyện B, lúc này khoảng 4 giờ sáng cùng ngày. Khi đến nhà T, C dựng xe ở lề đường rồi đi bộ vào đứng ở ngoài cửa sổ buồng ngủ của T và gọi “T ơi T, tao có cái máy bơm xịt rửa xe mày có mua không?”, T trả lời “Từ đã để tao xem thế nào đã, mày mang vào đây cho tao xem”. Sau đó T dậy đi xuống gian nhà kho mở cửa cho C bê bộ máy bơm xịt rửa xe vào nhà kho, khi đó T bật đèn pin ở điện thoại soi xem qua bộ máy bơm xịt rửa xe rồi hỏi C “ Mày lấy ở đâu ra”, C trả lời “Tao trộm ở xã K, xa lắm, không sao đâu”, T nghe thấy C nói là bộ máy bơm xịt rửa xe do C trộm cắp được mà có, nghĩ tài sản trộm cắp thường bán rẻ nên T muốn mua và hỏi C “Bộ máy này bán bao nhiêutiền”, C trả lời “Bán hơn 1 triệu”, T nói “Đắt quá, 800.000 đồng thôi”, C đồng ý bán. T trả cho C 800.000 đồng. C cầm tiền rồi đi. Đến ngày 17/7/2017 thì bị bắt theo lệnh bắt khẩn cấp số 07 của cơ quan Công an huyện Bắc Quang, còn T để bộ máy bơm xịt rửa xe ở trong kho đến ngày 16/7/2017 cơ quan Công an huyện phát hiện và thu giữ toàn bộ tang vật gồm:
- 01 mô tơ điện bằng kim loại, công suất 2,3KW, màu trắng xám, trên vỏ có in chữ TOÀN PHÁT
- 01 đầu máy nén khí bằng kim loại màu đỏ, trên vỏ máy có chữ GENFORGF230;
- 01 dây cô loa nối trục quay mô tơ với máy nén khí;
- 01 đoạn dây dẫn nước đầu vào bằng nhựa màu vàng dài 2m36cm;
- 01 đoạn dây dẫn nước đầu ra bằng nhựa màu vàng dài 10m;
Ngoài ra cơ quan điều tra còn thu giữ các vật chứng khác gồm: 01 xe mô tôBKS 18Z8-2894, nhãn hiệu HONDA,SUPER Dream; 01 đoạn dây cao su màu đen,01 kìm bằng kim loại, tay cầm bọc nhựa màu đỏ đen có ghi chữ Trtools
Tại kết luận định giá ngày 18/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tốtụng Hình sự huyện Bắc Quang kết luận:
- 01 bộ máy bơm xịt rửa xe gồm 01 mô tơ điện bằng kim loại, công suất2,2kw, màu trắng xám, trên vỏ có in chữ TOÀN PHÁT; 01 đầu máy nén khí bằng kim loại màu đỏ, trên vỏ máy có chữ GEN FORGF230; 01 dây cô loa nối trục quay mô tơ với máy nén khí có giá trị 2.300.000 đồng;
- 01 đoạn dây dẫn nước đầu vào bằng nhựa màu vàng dài 2m36cm có giá trị là 180.000 đồng.
- 01 đoạn dây dẫn nước đầu ra bằng nhựa màu vàng dài 10m có giá trị là150.000 đồng.
Tại Bản cáo trạng số 34/QĐ-KSĐT ngày 23 tháng 10 năm 2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang truy tố bị cáo Lục Văn C về "Tội trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Lê Chiến T về “Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định tại khoản 1 Điều 250 của Bộ luật Hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và xin được giảm nhẹ trách nhiệm hìnhsự.
Bị hại là anh Nguyễn Cơ T1 khai: Sáng ngày 14/7/2017, anh phát hiện ra bị mất 01 bộ máy rửa xe trong đó gồm: 01 mô tơ điện bằng kim loại, công suất 2,2kw, màu trắng xám, trên vỏ có in chữ TOÀN PHÁT; 01 đầu máy nén khí bằng kim loại màu đỏ, trên vỏ máy có chữ GEN FORGF230; 01 dây cô loa nối trục quay mô tơ với máy nén khí; 01 đoạn dây dẫn nước đầu vào bằng nhựa màu vàng và 01 đoạn dây dẫn nước đầu ra bằng nhựa màu vàng nên anh đã trình báo cơ quan Công an. Quá trình điều tra cơ quan Công an huyện đã thu giữ được bộ máy rửa xe và đã trao trả lại cho anh T1 nên anh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là chị Bùi Thị O khai: Chiều ngày 13/7/2017, Lục Văn C có hỏi chị mượn xe máy BKS 18Z8-2894, nhãn hiệu HONDA,SUPER Dream của chị để đi về nhà. Đến khi cơ quan Công an huyện mời chị lên làm việc thì chị mới biết C đã tự ý sử dụng xe máy của chị để làm phương tiện chở tài sản trộm cắp. Quá trình điều tra cơ quan Công an huyện đã trao trả lại xe máy cho chị và chị không có yêu cầu gì.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lục Văn C phạm Tội trộm cắp tài sản; áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lục Văn C từ 09 tháng đến 12 tháng tù; bị cáo Lê Chiến T phạm Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, áp dụng khoản 1 Điều 250, điểm h, p khoản 1 Điều 46, khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Chiến T từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đượctranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Quang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo Lục Văn C và Lê Chiến T đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, các bị cáo khai nhận: Vào 02 giờ sáng ngày 14/7/2017 tại Thôn M, xã K, huyện B lợi dụng về đêm khi chủ sở hữu tài sản ngủ say, bị cáo Lục Văn C đã lén lút lấy 01 bộ máy bơm xịt rửa xe gồm 01 mô tơ điện bằng kim loại, công suất 2,2kw, màu trắng xám, trên vỏ có in chữ TOÀN PHÁT; 01 đầu máy nén khí bằng kim loại màu đỏ, trên vỏ máy có chữ GEN FORGF230; 01 dây cô loa nối trục quay mô tơ với máy nén khí; 01 đoạn dây dẫn nước đầu vào bằng nhựa màu vàng dài 2m36cm; 01 đoạn dây dẫn nước đầu ra bằng nhựa màu vàng dài 10m của anh Nguyễn Cơ T1 có tổng giá trị theo kết luận của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự là 2.630.000 đồng sau đó mang đến Thôn P, xã Q, huyện B bán cho bị cáo Lê Chiến T với giá 800.000 đồng. Mặc dù không hứa hẹn trước nhưng bị cáo Lê Chiến T biết rõ 01 bộ máy bơm xịt rửa xe trên là tài sản do bị cáo Lục Văn C phạm tội mà có nhưng vì ham rẻ mà bị cáo đồng ý mua để sử dụng. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại, biên bản thu giữ vật chứng và kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Bắc Quang. Như vậy, có đủ cơ sở để HĐXX kết luận bị cáo Lục Văn C phạm Tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, bị cáo Lê Chiến T phạm Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo khoản 1 Điều 250 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Hành vi phạm tội của bị cáo Lục Văn C như nêu trên đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Chiến T đã tiếp tay, tạo điều kiện và thúc đẩy cho các đối tượng xấu trong xã hội thực hiện các hành vi phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành viphạm tội của các bị cáo đều gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện.
Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của các bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Lục Văn C chỉ bị xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự, bị cáo Lê Chiến T chỉ bị xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 250 của Bộ luật Hình sự.
Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hìnhphạt đối với bị cáo: Các bị cáo Lục Văn C , bị cáo Lê Chiến T đều không có tìnhtiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lục Văn C có hành vi trực tiếp lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, còn hành vi của bị cáo Lê Chiến T gián tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của ngườikhác được pháp luật bảo vệ, hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo Lục Văn C có tínhchất, mức độ nghiêm trọng hơn hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có của bị cáo Lê Chiến T. Bị cáo Lục Văn C được hưởng một tình tiết giảm nhẹđược quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự là thành khẩn khaibáo, về nhân thân bị cáo Lục Văn C thấy rằng năm 2006 bị cáo bị Tòa án huyện Vị Xuyên xử 15 tháng tù về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tuy đã được xóa án tích nhưng cho thấy bị cáo có nhân thân không tốt. Bị cáo Lê Chiến T có 03 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo; ăn nănhối cải; xét về nhân thân bị cáo Lê Chiến T thấy rằng bị cáo có nhân thân tốt, cónơi cư trú cụ thể rõ ràng, có khả năng tự cải tạo. Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội của từng bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo, HĐXX xét thấy bị cáo Lục Văn C phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo Lê Chiến T và cần cách ly bị cáo Lục Văn C ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục cải tạo bị cáo trở thành một người công dân sống có ích cho xã hội, không cần cách ly bị cáo Lê Chiến T ra khỏi đời sống xã hội mà giao cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng để răn đe giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành một người công dân sống có ích cho xã hội.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra người bị hại là anh Nguyễn Cơ T1 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[5] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô của chị Bùi Thị O do bị cáo Lục Văn C tự ý sử dụng để làm phương tiện phạm tội đã được cơ quan điều tra trao trả lại cho chị Bùi Thị O là có cơ sở để HĐXX chấp nhận. Đối với chiếc kìm, dây co là công cụ để bị cáo Lục Văn C sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về án phí: Các bị cáo Lục Văn C và bị cáo Lê Chiến T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Lục Văn C phạm tội trộm cắp tài sản, bị cáo Lê Chiến T phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lục Văn C 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày bị bắt (Ngày17/7/2017). Tiếp tục tạm giam bị cáo theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xétxử.
Áp dụng khoản 1 Điều 250, điểm h, p khoản 1 Điều 46, khoản 1,2 Điều 60 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Chiến T 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng tính kể từ ngày tuyên án, ngày27/11/2017.
Giao bị cáo Lê Chiến T cho UBND xã Q, huyện B giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 dây cao su màu đen dài 02m 68cm, 01 kìm bằng kim loại, tay cầm bọc nhựa màu đỏ đen có ghi chữ TRTOOLS, kìm cũ đã qua sử dụng.
Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an huyện Bắc Quang và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Quang ngày24/11/2017.
Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13, ngày 25/11/2015 của Quốc hội, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, buộc các bị cáo Lục Văn C , Lê Chiến T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Báo cho các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 37/2017/HS-ST ngày 27/11/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 37/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về