Bản án 37/2017/HS-ST ngày 13/11/2017 về tội giao cấu với trẻ em

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 37/2017/HS-ST NGÀY 13/11/2017 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM

Ngày 13 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thẩm thụ lý số: 41/2017/HS-ST ngày 02 tháng 10 năm 2017, đối với bị cáo:

Họ và tên: Danh V, sinh ngày 19/4/1998 tại Kiên Giang; hộ khẩu thường trú: ấp Hiệp Hòa, xã Mỹ Hiệp Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: Không biết chữ; con ông Danh Đ, sinh 1974 và bà Lâm Thị H, sinh 1968; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 20/7/2017 đến nay.

Người bị hại: Tô Thị M, sinh ngày 22/8/2002; trú tại: ấp Tân Lợi, xã Tân Thành, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

Người đại diện theo pháp luật cho người bị hại: Ông Tô Văn Bé H, sinh1978 và bà Lê Thị T, sinh 1980; cùng trú tại: ấp Tân Lợi, xã Tân Thành, huyệnTân Hiệp, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau: Bị cáo thường đến quán cà phê Chí Thành thuộc thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang uống cà phê nên quen biết và có tình cảm yêu đương với Tô Thị M sinh ngày 22/8/2002 là nhân viên phục vụ của quán.

Trưa ngày 09/11/2016, M xin về thăm nhà và điện thoại cho bị cáo đến rước và đi thăm người bà con ở huyện Tân Hiệp, Kiên Giang thì bị cáo đồng ý; bị cáo điện thoại rủ Lê Văn B, Lê Thanh T cùng đi, khi đến huyện Tân Hiệp thì bị cảnh sát giao thông giữ xe do vi phạm giao thông nên cả nhóm đi bộ từ huyện Tân Hiệp về nhà bà Châu Thị K (bà ngoại của bị cáo) thuộc ấp Trung Sơn, thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang để nghỉ.

Khi đến nhà bà K khoảng 00 giờ ngày 10/11/2016, do bị bà K la nên bị cáo dẫn M, T, B qua nhà bà Lâm Thị U (dì út của bị cáo, nhà không người ở) bên cạnh nhà bà K để nghỉ. T, B ngủ phía trước nhà, còn M và bị cáo ngủ trong phòng, đến khoảng 03 giờ ngày 10/11/2016, bị cáo thức giấc và nảy sinh ý định giao cấu với M nên dùng tay sờ ngực M, thấy M không phản ứng, bị cáo tự cởi quần ra, lúc này M cũng tự cởi quần ra và cả H quan hệ tình dục với nhau, sau khi quan hệ tình dục xong, cả H mặc quần áo vào và ngủ đến sáng.

Do không thấy M trở lại quán nên chủ quán gọi điện cho ông Tô Văn Bé H (cha M) để hỏi thì được biết M không có ở nhà, ông H đi tìm được mọi người cho biết M đang ở nhà ngoại của bị cáo, ông H đến kêu M về nhưng M sợ trốn trong phòng, ông H trình báo Công an thị trấn Óc Eo để tìm M; khoảng 18 giờ ngày 10/11/2016, Công an thị trấn Óc Eo đến mời bị cáo và M về trụ sở làm việc thì bị cáo thừa nhận hành vi giao cấu với M.

Vật chứng thu giữ: 01 quần dài vải thun màu đen, 01 quần lót nữ màu đen, 01 áo thun dây nữ màu V, 01 áo lót nữ màu đen.

Tại Cáo trạng số: 38/VKS-HS ngày 28/ 9/ 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn để xét xử đối bị cáo Danh V, về tội “Giao cấu với trẻ em” theo khoản 1 điều 115 Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai nhận thực hiện hành vi giao cấu với Tô Thị M như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.

Người bị hại Tô Thị M, trình bày: M và bị cáo có tình cảm, yêu nhau và việc quan hệ tình dục với nhau giống như bị cáo trình bày. M, ông Tô Văn Bé H và bà Lê Thị T là người đại điện cho M không yêu cầu xử lý hình sự bị cáo và không yêu cầu bồi thường (Bút lục: 32-35, 68-71, 74-81).

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn phát biểu quan điểm khẳng định bị cáo Danh V phạm tội Giao cấu với trẻ emvà giữ nguyên quyết định truy tố; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 115, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Xử phạt bị cáo Danh V từ 01 (Một) năm đến 02 (Hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 quần dài vải thun màu đen, 01 quần lót nữ màu đen, 01 áo thun dây nữ màu V, 01 áo lót nữ màu đen.

Bị cáo không tranh luận về tội danh, khoản, điều luật, tình tiết giảm nhẹ và hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo; nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, những người làm chứng và các biên bản của hoạt động tố tụng, thể hiện: Ngày 09/11/2016, bị cáo điều khiển xe mô tô đến quán cà phê Chí Thành thuộc thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang để rước, đưa Tô Thị M về nhà và đi thăm người bà con ở huyện Tân Hiệp, Kiên Giang; khoảng 15 giờ đến huyện Tân Hiệp, do vi phạm bị cảnh sát giao thông giữ xe. Bị cáo cùng M đi bộ từ huyện Tân Hiệp về đến nhà bà Châu Thị K (bà ngoại của bị cáo) thuộc ấp Trung Sơn, thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang khoảng 00 giờ ngày 10/11/2016, do bị bà K la nên bị cáo dẫn M qua nhà bà Lâm Thị U (dì út của bị cáo, nhà không người ở) bên cạnh nhà bà K để nghỉ. Khoảng 03 giờ ngày 10/11/2016, khi cùng ngủ trong phòng, bị cáo dùng tay sờ vào ngực của M, thấy M không phản ứng bị cáo tự cởi quần ra và M cũng tự cởi quần ra, bị cáo thực hiện hành vi giao cấu với M.

Căn cứ Giấy chứng nhận thương tích số: 146/CN ngày 11/11/2016 của Bệnh viện Đa khoa huyện Thoại Sơn, xác định tình trạng thương tích của Tô Thị M lúc ra viện: Bệnh nhân tỉnh táo, khám âm đạo vùng môi lớn, môi nhỏ không xây xát, có nhiều huyết trắng, màng trinh khoảng 05 giờ có rách # 4mm, đang rịn máu, xét nghiệm không tìm thấy tinh trùng.

Căn cứ kết luận giám định pháp y về độ tuổi số: 700/C54B ngày 22/02/2017 của Viện Khoa học hình sự (Bộ Công an) tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tại thời điểm giám định (tháng 02 năm 2017) Tô Thị M có độ tuổi từ: 15 năm 6 tháng đến 16 năm.

Hành vi của bị cáo có lỗi cố ý, xâm phạm đến quyền được B vệ về nhân phẩm, danh dự của trẻ em, xâm phạm đến sức khỏe và sự phát triển bình thường của trẻ em, vi phạm quy định tại Điều 115 Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo phạm tội “Giao cấu với trẻ em” là có căn cứ nên được chấp nhận.

Xét tính chất, mức độ phạm tội, thấy: Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi; lẽ ra, phải nhận thức được hậu quả của việc giao cấu với người bị hại là trẻ em sẽ làm ảnh hưởng đến sức khỏe, sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý của trẻ em được pháp luật B vệ; vì ham muốn tình dục, lợi dụng người bị hại là trẻ em thiếu hiểu biết, chưa nhận thức được hậu quả của việc quan hệ tình dục sớm, bị cáo dùng lời lẽ yêu thương, hứa hẹn, dùng tay sờ vào vùng nhạy cảm của người bị hại kích thích để thực hiện hành vi giao cấu. Với tính chất của hành vi phạm tội và mức độ hậu quả do bị cáo gây ra cho người bị hại thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 115 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 115 Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 để quyết định hình phạt đối với bị cáo là phù hợp.

Xét, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; trong quá trình điều tra, truy tố người bị hại, đại diện người bị hại không yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo và cũng không yêu cầu bồi thường về trách nhiệm dân sự, đây được xem là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là có căn cứ nên được chấp nhận. Căn cứ vào Điều 45 của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù để trừng trị và có thời gian giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, xét giữa bị cáo và người bị hại có tình cảm yêu thương và bị cáo thực hiện hành vi phạm tội có sự tự nguyện của người bị hại; hơn nữa, tuy nghe, biết, hiểu tiếng việt, không yêu cầu người phiên dịch, nhưng bị cáo dân tộc Khmer, không biết chữ khả năng nhận thức pháp luật thấp, đây là tình tiết cần xem xét cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Xét đề nghị của Viện kiểm sát về xử lý vật chứng, Hội đồng xét xử xét thấy: Vật chứng không có giá trị và người bị hại không yêu cầu nhận lại. Do đó, có căn cứ áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Danh V phạm tội “Giao cấu với trẻ em”.

Áp dụng khoản 1 Điều 115, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

- Xử phạt bị cáo Danh V 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 20/7/2017.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 quần dài vải thun màu đen, 01 quần lót nữ màu đen, 01 áo thun dây nữ màu V, 01 áo lót nữ màu đen.

(Theo quyết định chuyển vật chứng số: 27/QĐ-VKS ngày 28 tháng 9 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn). Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/ 12/ 2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc hội.

- Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

512
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2017/HS-ST ngày 13/11/2017 về tội giao cấu với trẻ em

Số hiệu:37/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:13/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về