Bản án 371/2017/HSPT ngày 28/07/2017 về làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức và lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 371/2017/HSPT NGÀY 28/07/2017 VỀ LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC VÀ LỪA ĐẢO CHIẾM ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 286/HSPT ngày 19/5/2017 đối với bị cáo Trần Thị Thu H do kháng cáo của người bị hại Phạm Thị Y đối với bản án hình sự sơ thẩm số 88/2017/HSST ngày 14/4/2017 của Tòa án nhân dân quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo bị kháng cáo: Trần Thị Thu H, sinh năm: 1985 tại Tỉnh Đ; giới tính: nữ; nơi thường trú: đường HT, khu phố 1, phường H, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: nhà không số tổ 6B, khu phố 1, phường H, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Trần Trung L (chết) và bà Nguyễn Thị Ánh T; có chồng tên Trần Trí D, sinh năm: 1985, có 02 con: con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm: 2014; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại. (có mặt).

Người bị hại có kháng cáo: Bà Phạm Thị Y, sinh năm: 1967; Trú tại: 2/3 đường L, Phường 7, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo:Bà Trần Thu T, sinh năm: 1959; trú tại: 2067 tổ 1, ấp P, xã PM, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: Luật sư Nguyễn Hữu M thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bảo vệ quyền lợi cho người bị hại Phạm Thị Y. (có mặt).

NHẬN THẤY

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận G và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận G thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bị cáo Trần Thị Thu H có mối quan hệ quen biết với bà Phạm Thị Y thông qua mẹ của bị cáo là bà Nguyễn Kim D, quá trình quen biết bà Nguyễn Kim D có quan hệ vay mượn tiền với bà Phạm Thị Y và sau này chuyển toàn bộ nghĩa vụ thanh toán tiền vay và trả nợ cho H và chồng H là Trần Trí D. Ngoài các mối quan hệ vay mượn dân sự có thể chấp tài sản thì ngày 22/02/2013, H thế chấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 273/2008/UB- GCN ngày 24/7/2008 do UBND Quận Q cấp mang tên Trần Thị Thu H cho bà Phạm Thị Y để vay số tiền 100.000.000 đồng.

Kết quả giám định số 799/KLGĐ-TT ngày 15/6/2014 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở có số hồ sơ gốc 273/2008/UB-GCN ngày 24/7/2008 đứng tên Trần Thị Thu H do Phó chủ tịch UBND Quận Q ký được xác định là giả.

Khi thế chấp giấy giả này cho bà Phạm Thị Y, chồng bị cáo là Trần Trí D viết giấy mượn tiền và mẹ bị cáo là Nguyễn Kim D ký bảo lãnh.

Quá trình điều tra lại theo yêu cầu hủy án trước để làm rõ vai trò của Trần Trí D và Nguyễn Kim D đã xác định Trần Trí D và Nguyễn Kim D không biết việc bị cáo làm giấy tờ giả để lừa dối vay tiền của bà Y nên không có cơ sở xử lý hình sự đối với hành vi làm giả con dấu tài liệu của cơ quan tổ chức và lừa đảo chiếm đoạt tài sản số tiền 100.000.000 đồng của bà Y đối với D và D.

Bị cáo đã trả lại cho người bị hại số tiền 100.000.000 đồng trước khi mở phiên tòa sơ thẩm.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 88/2017/HSST ngày 14/4/2017, Tòa án nhân dân quận G đã áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho bị cáo Trần Thị Thu H 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BĐ 539201, số vào sổ cấp GCN: CH05561 do UBND huyện B, tỉnh BD cấp ngày 17/3/2011, thửa đất số 1024, tờ bản đồ số 49, diện tích 94m2, địa chỉ: xã TH, huyện B, tỉnh BD.

- Trả lại cho bà Trần Thu T 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 863412, số vào sổ: H0036/11, địa chỉ: ấp P, xã Phú MH, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh do UBND huyện C cấp ngày 05/8/2005, thửa đất 603 tờ bản đồ số 02, diện tích 2483.3m2.

Ngoài ra sơ thẩm còn tuyên bố bị cáo Trần Thị Thu H phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 267; điểm e khoản 2 Điều 139; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 50; Điều 33 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Thị Thu H 06 (sáu) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” và 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hình phạt chung của 02 tội là 02 (hai) năm tù. Thời hạn tính từ ngày bắt chấp hành án.

- Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án Giấy tờ nhà đất được xác định là giả. Toà sơ thẩm còn kiến nghị tiếp tục điều tra đối với hành vi mua bán căn nhà tại phường T, Quận Q liên quan đến đối tượng Trần Thị Tuyết Tr, tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không kháng cáo. Viện kiểm sát không có kháng nghị liên quan đến tội danh, hình phạt.

Ngày 20/4/2017 bà Phạm Thị Y có đơn kháng cáo và ngày 17/6/2017 có đơn kháng cáo bổ sung đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét trả lại các giấy chứng nhận mang tên bà Trần Thu T và Trần Thị Thu H được xác định là các giấy tờ thật trước đó đang được đảm bảo cho các khoản vay mượn giữa bị cáo, ông D và những người liên quan với bà.

Tại phiên tòa ngày hôm nay bà Phạm Thị Y giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và đề nghị kháng cáo bổ sung tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Thị Thu H.

Bị cáo Trần Thị Thu H đồng ý trả lại giấy chứng nhận cho bà Phạm Thị Y.

Bà Trần Thu T cho rằng bà chỉ cho bạn của bà là bà H mượn giấy chứng nhận này để đi thế chấp nhưng thế chấp cho ai thì bà không biết. Ngày tuyên án bà không có mặt tại phiên tòa sơ thẩm. Bà không vay mượn hay cầm cố đối với H và bà Y, bà không biết tại sao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà lại ở chỗ của bà Y nên đề nghị xem xét trả lại giấy chứng nhận cho bà.

Đại diện Viện kiểm sát kết luận đối với vụ án: đơn kháng cáo đầu tiên bà Y chỉ yêu cầu xem xét về giấy tờ thế chấp mang tên bị cáo và bà T. Hôm nay bà Y bổ sung thêm yêu cầu tăng hình phạt, chủ tọa đã giải thích là có căn cứ pháp luật và không xem xét yêu cầu này của bà.

Đối với yêu cầu kháng cáo của bà liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Trần Thu T, bà T không trực tiếp đem cầm, bà T là chủ sở hữu hợp pháp nên tòa án cấp sơ thẩm trả lại tờ giấy này cho bà Tâm là phù hợp quy định pháp luật.

Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bị cáo H đã đem thế chấp cho bà Y, đây là giao dịch dân sự bị cáo là chủ sở hữu hợp pháp, đây là sự vay mượn thực tế và bị cáo xác nhận có cầm cố để vay mượn nên ghi nhận và đề nghị trả lại giấy này cho bà Y.

Luật sư trình bày: đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà T, bà T thừa nhận cho bà H mượn đi tín chấp. Khi sự việc xảy ra, tại cơ quan điều tra bà T cũng thừa nhận cho bà H mượn nhưng sau đó lại khai mất sổ để làm sổ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét. Bà T có thể yêu cầu bà H trả lại sổ bằng một vụ án dân sự nhưng đến nay bà T cũng không có bất cứ yêu cầu nào. Tài sản có giá trị lớn nên không có lý do gì đưa cho bà H mà không có giấy tờ gì.

Bị cáo H cầm sổ để vay tiền của bà Y nên đề nghị áp dụng Bộ luật dân sự không trả sổ cho bà T. Bà T có thể khởi kiện dân sự, nếu trả sổ cho bà T thì bà Y sẽ không được đảm bảo khoản vay 300 triệu. Đồng ý với sự tự nguyện của bị cáo H công chứng sang tên sổ của bà Y. PC45 cũng đề nghị xử lý Trần Trí D, Nguyễn Kim D và Tr, hiện nay bà D đã đi nước ngoài. Do đó để bảo vệ quyền lợi cho bà Y nên đề nghị chấp nhận một phần kháng cáo của bà Y là không trả sổ cho bà Trần Thu T.

Bà Trần Thu T có ý kiến: Bà cho bà H mượn giấy chứng nhận theo tình cảm. Luật sư nói giá trên 1.000.000.000 đồng nhưng thực tế giá chưa được 200 triệu. Bà Y không hề biết mảnh đất này ở đâu. Giấy không phải chủ đứng tên đi mượn tiền ai cho mượn mà do bà H nói mượn để đi tín chấp. PC45 nói chuyện đi làm cớ mất nhưng thực sự bà không đi làm cớ mất mà do bà H nói rồi bà Y nghe. Bà không vay mượn gì hết, chỉ cho bà H mượn sổ thôi.

Đại diện Viện kiểm sát tranh luận: Viện kiểm sát nói ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo H là việc bị cáo đồng ý trả sổ cho bà Y chứ không phải ra công chứng sang tên.

Luật sư tranh luận: Nhưng Trần Trí D và H sau khi xét xử sơ thẩm đã cam kết công chứng sang tên cho bà Y nên đề nghị xem xét.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Về phạm vi xét kháng cáo của Tòa án cấp phúc thẩm đối với phần kháng cáo bổ sung tại phiên tòa của bà Phạm Thị Y đề nghị Hội đồng xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Thị Thu H là không có căn cứ chấp nhận vì căn cứ vào khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng hình sự thì việc bổ sung yêu cầu kháng cáo đã làm xấu đi tình trạng của bị cáo nên không được chấp nhận.Trường hợp bà Phạm Thị Y không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm thì đề nghị xem xét theo trình tự giám đốc thẩm. Đối với yêu cầu xem xét xử lý vật chứng là hai giấy chứng nhận, kháng cáo trong hạn luật định nên có căn cứ xem xét.

Tội danh và hình phạt án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo Trần Thị Thu H sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo, người bị hại không có kháng cáo và Viện kiểm sát các cấp cũng không có kháng nghị liên quan đến phần tội danh, hình phạt nên phần này của án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật không thuộc phạm vi xem xét của cấp phúc thẩm.

Xét yêu cầu kháng cáo của người bị hại về phần xử lý vật chứng liên quan đến việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên trả lại hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Trần Thị Thu H và Trần Thu T. Các giấy tờ này qua giám định xác định là giấy thật, nguồn gốc các giấy này trước khi khởi tố vụ án bà Phạm Thị Y là người đang quản lý các giấy chứng nhận số BĐ 539201, số vào sổ cấp GCN: CH05561 do UBND huyện B, tỉnh BD cấp cho Trần Thị Thu H và 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 863412, số vào sổ: H0036/11, do UBND huyện C cấp cho bà Trần Thu T để đảm bảo các khoản vay theo các giấy vay mượn tiền; Các quan hệ vay mượn tiền liên quan đến hai giấy chủ quyền này Tòa án cấp sơ thẩm cũng xác định là các quan hệ dân sự khác không thuộc phạm vi xem xét trong vụ án hình sự nên đã tách việc giải quyết các quan hệ liên quan, giành cho các bên quyền khởi kiện bằng thủ tục tố tụng khác khi có yêu cầu nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại tuyên trả lại hai giấy chứng nhận cho những người đứng tên chủ sở hữu là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bà Phạm Thị Y. Bà Y đang là người quản lý các giấy tờ này và chưa có tranh chấp. Các quan hệ vay mượn, thế chấp liên quan đến hai giấy chứng nhận quyền sở hữu này là một quan hệ khác không thuộc phạm vi xem xét của vụ án hình sự. Mặt khác, quan hệ cầm giữ, thế chấp cũng chưa có bản án, quyết định nào của cơ quan có thẩm quyền có hiệu lực pháp luật giải quyết liên quan đến hai giấy chứng nhận quyền sở hữu này. Đồng thời tại phiên tòa bà Trần Thu T cũng xác định bà cho bạn tên H mượn giấy để thế chấp nhưng thế chấp cho ai thì bà không biết, H cũng xác nhận quan hệ vay mượn với bà Y và có thế chấp giấy chủ quyền cho bà Y và quan hệ vay mượn có thế chấp này chưa được hai bên giải quyết xong. Như vậy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thị Y; Sửa bản án sơ thẩm tuyên trả lại hai giấy chứng nhận này cho bà Phạm Thị Y tiếp tục quản lý. Trường hợp các bên có tranh chấp liên quan đến các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này sẽ được giải quyết bằng một thủ tục khác.

Cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm trong việc viết bản án phải tuân thủ nghị quyết đó là các nội dung liên quan đến hành vi phạm tội chỉ mô tả những hành vi nào thuộc phạm vi xét xử của vụ án hình sự.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248; khoản 1 Điều 238; Điều 241 của Bộ luật tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận việc bổ sung kháng cáo của bà Phạm Thị Y. Chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thị Y, sửa bản án sơ thẩm số 88/2017/HSST ngày 14/4/2017 của Tòa án nhân dân quận G về phần xử lý vật chứng. Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho bà Phạm Thị Y: 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 863412, số vào sổ: H0036/11 do UBND huyện C cấp ngày 5/8/2005, thửa đất số 603, tờ bản đồ số 02, diện tích 2483.3m2 tại ấp P, xã PM, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh mang tên Trần Thu T và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số BĐ 539201, số vào sổ cấp GCN: CH05561 do UBND huyện B, tỉnh BD cấp ngày 17/3/2011, thửa đất số 1024, tờ bản đồ số 49 diện tích 947m2  tại xã T, huyện B, tỉnh BD mang tên Trần Thị Thu H. (02 Giấy chứng nhận đang được lưu giữ trong hồ sơ vụ án).

Bà Phạm Thị Y không phải chịu án phí phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

930
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 371/2017/HSPT ngày 28/07/2017 về làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức và lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:371/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về