Bản án 370/2019/HS-PT ngày 31/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 370/2019/HS-PT NGÀY 31/12/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 397/2019/TLPT-HS, ngày 06/12/2019 đối với bị cáo Bùi Danh H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 22/2019/HS-ST, ngày 08/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Bùi Danh H (Tên gọi khác: HT); Sinh năm 1988 tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Tổ dân phố S, thị trấn BT, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Danh C (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1991 (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2009;

Tiền án: có 02 tiền án, tại Bản án số 235/2010/HS-PT, ngày 13/5/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt bị cáo 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Tại bản án số 06/2017/HSST, ngày 06/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 09/02/2018 chấp hành xong án phạt tù, chưa được xóa án tích;

Tiền sự: không; Nhân thân: Tại Bản án số 100/2010/HSPT, ngày 16/4/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Ngày 21/11/2010 chấp hành xong hình phạt tù, đã được xóa án tích. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

- Người bị hại: Anh Nguyễn Thành P, sinh năm 1978. Địa chỉ: Buôn TA, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 3/2019 Bùi Danh H đang đi cùng với anh Hồ Văn T1 từ thành phố B về thị trấn B, huyện K thì H nhận được điện thoại của anh Lương D1 nói với H thấy có 01 lồng chim treo ở gần quán tạp hóa, ở bên trái đường gần chân đèo EN, thuộc xã D, huyện K. Khi đi đến khu vực gần chân đèo EN thuộc buôn TA, xã D, huyện K thì H nói anh T1 đi chậm lại, khi phát hiện thấy nhà anh Nguyễn Thành P ở buôn TA, xã D, huyện K có treo 01 lồng chim bên trong có 01 con chim cu gáy, H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, H nói anh T1 dừng xe lại rồi H xuống xe, đi qua đường, trèo lên hàng rào lấy trộm lồng chim, trong lồng có 01 con chim cu gáy, sau đó ra xe nói anh T1 chở về nhà ở tổ dân phố S, thị trấn BT, huyện K cất giấu, đến ngày 09/6/2019 thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K phát hiện và thu giữ.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã tạm giữ: 01 con chim loại chim cu gáy, lông màu nâu; 01 lồng chim bằng dây kẽm màu trắng bạc, đan thành hình cầu, bên trong có đế bằng nhựa màu hồng đế phục vụ công tác điều tra.

Tại Bản kết luận định giá số 21/KLĐG ngày 11/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện K, kết luận: 01 con chim cu gáy và 01 lồng chim bằng sắt, có tổng giá trị là 350.000 đồng.

Cáo trạng số 22/CT-VKS-HS ngày 27/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Bùi Danh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 22/2019/HSST, ngày 08/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện K đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Bùi Danh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 173 BLHS, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Bùi Danh H 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng, quyền kháng cáo của bị cáo và các đương sự.

Ngày 23/10/2019, bị cáo Bùi Danh H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mức hình phạt 06 tháng tù đối với bị cáo là thỏa đáng. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Bùi Danh H, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt tù cũng như các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị.

Tại phiên tòa bị cáo không bào chữa, tranh luận gì thêm chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng tháng 3/2019 bị cáo Bùi Danh H đã lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là 01 con chim cu gáy và 01 lồng chim bằng dây kẽm của anh Nguyễn Thành P ở buôn TA, xã D, huyện K, tổng trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt là 350.000 đồng. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có một tiền án về tội cướp tài sản và một tiền án về tội trộm cắp tài sản. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo, thấy rằng:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Thành P, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an ninh của xã hội tại địa phương. Xét mức hình phạt 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời đã xem xét đầy đủ các tỉnh tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo, mà cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt là phù hợp.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Bùi Danh H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 [1]. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Bùi Danh H.

Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 22/2019/HS-ST, ngày 08/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

[2]. Điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173 BLHS, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Bùi Danh H 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Bùi Danh H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 370/2019/HS-PT ngày 31/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:370/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về