Bản án 370/2018/HSPT ngày 20/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 370/2018/HSPT NGÀY 20/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 348/2018/HSPT, ngày 24-10-2018 đối với bị cáo Cứ Thị N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2018/HSST ngày 24/09/2018 của Toà án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Cứ Thị N, sinh năm 1982 tại tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: thôn G, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: làm nông; trình độ hoạc vấn: không biết chữ; dân tộc: H’Mông; giới tính: nữ; tôn giáo: Tin Lành; con ông Cứ A G (đã chết) và con bà Vàng Thị M; có chồng là Phàng A L và 01 con sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: không.Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/5/2018, hiện đang giam – có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà H’M – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Lắk – có mặt.

- Người phiên dịch: ông Hàng A G - có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 10/5/2018, tại nhà Cứ Thị N thuộc thôn G, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk có hai người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) biết N nghiện ma túy nên vào nhà bán cho N 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng để sử dụng. Đến khoảng 7 giờ ngày 11/5/2018, hai người đàn ông tiếp tục vào nhà hỏi N có lấy ma túy bán không, N không mua nhưng nói với hai người đàn ông đi ra phía sau bờ hồ cách nhà N khoảng 200m chờ, khi nào có người vào hỏi mua thì N nhận tiền và ra đó mua cho họ. Sau đó đến khoảng 9 giờ, có một người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) vào nhà N nhờ N đi mua giúp 400.000 đồng ma túy mục đích để sử dụng vì người thanh niên này cũng nghiện ma túy. N nói là chỉ cần 200.000 đồng là mua đủ nên cầm của người thanh niên 200.000 đồng và trả lại 200.000 đồng. Lúc này, người thanh niên nói đi mua được về sẽ cho N 50.000 đồng tiền công, N đồng ý. Sau đó N cầm 200.000 đồng đi ra phía sau bờ hồ, nơi hai người đàn ông đang đứng đợi N theo sự hướng dẫn ban đầu của N và đưa 200.000 đồng cho một người đàn ông và người này đưa cho N 01 gói ma túy. N cầm gói ma túy đi về nhà, trên đường đi thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ trên tay phải của N 01 gói ma túy và 400.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 465/GĐMT-PC45 ngày 15/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói nylon màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2966 gam, loại Hêrôin.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2018/HSST ngày 24-9-2018 của Toà án nhân dân huyện Krông Năng đã quyết định:

Tuyên bố: bị cáo Cứ Thị N, phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Cứ Thị N 02 (hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 27/9/2018, bị cáo Cứ Thị N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Cứ Thị N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm cũng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng hành vi khách quan của bị cáo thể hiện bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm b, c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với quan điểm của Kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm b, c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự để xét xử bị cáo 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bị cáo Cứ Thị N không có ý kiến tranh luận gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 11/5/2018, bị cáo Cứ Thị N đã hướng dẫn cho hai người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) ra phía sau nhà mình để đợi có người mua ma túy thì bị cáo sẽ ra lấy ma túy để chuyển cho người mua, khi có người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua ma túy và hứa sẽ trả công cho bị cáo 50.000 đồng thì bị cáo đã lấy của người thanh niên này 200.000 đồng rồi đến chỗ hai người đàn ông đã đợi sẵn phía sau nhà mình để lấy ma túy đem vào nhà thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ trên người bị cáo 0,2966 gam Hêrôin. Vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét quan điểm của Kiểm sát viên và người bào chữa cho bị cáo là không đủ căn cứ vì chỉ căn cứ vào hành vi khách quan mà không xem xét ý chí chủ quan, động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo nên không chấp nhận.

 [2] Xét mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; đánh giá và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

 [3] Về phần quyết định hình phạt đối với bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Cứ Thị N 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tuy nhiên không xác định thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo là từ thời điểm nào là thiếu sót, cần rút kinh nghiệm.

 [4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

 [5] Về án phí phúc thẩm: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: miễn án phí hình sự phúc thẩm đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cứ Thị N – giữ nguyên bản án sơ thẩm.

 [2] Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Xử phạt bị cáo Cứ Thị N 02 (Hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/5/2018.

 [3] Về án phí: Bị cáo Cứ Thị N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

 [4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 370/2018/HSPT ngày 20/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:370/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về