TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 369/2019/HS-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 347/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 382/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:
Lê Hớn L, sinh năm 1988 tại tỉnh A; thường trú: Số 15 đường Ph, Khóm 5, phường Ch, thành phố Châu , tỉnh A; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Hoa; tôn giáo: Phật giáo; con ông Lê Chí N, sinh năm 1963 và mẹ Lê Thị C, sinh năm 1965; có 01 em ruột, sinh năm 1996; tiền án; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 10/7/2019, có mặt tại phiên tòa.
- Người chứng kiến:
1. Nguyễn Thành L, sinh năm 1995; vắng mặt.
2. Nguyễn Thanh D, sinh năm 1998; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 10/7/2019 Lê Hớn L đang ở tại phòng trọ số 10 địa chỉ 577/19 khu phố B, phường A, thị xã D, đi bộ ra đầu hẻm để mua nước uống thì gặp người đàn ông tên C (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng, C và đưa cho L 01 túi nilon miệng kéo dính chứa ma túy đá. Sau khi giao dịch ma túy xong, L cầm gói ma túy về phòng trọ cất. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, L lấy ma túy ra sử dụng một ít, phần còn lại L cất trong túi xách da treo lên tường.
Khoảng 14 giờ cùng ngày, tổ tuần tra Công an phường A phối hợp với đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an thị xã D tiến hành kiểm tra hành chính dãy trọ tại 577/19 khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh B, khi đến phòng số 10 do Lê Hớn L thuê, phát hiện 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy ở trên bàn vi tính trong phòng, tiếp tục kiểm tra thì phát hiện trong túi xách da màu đen treo trên tường có 01 túi nilon miệng kéo dính, bên trong có chứa tinh thể màu trắng, L khai nhận là ma túy đá và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.
Vật chứng thu giữ: 01 túi nilon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng, khối lượng: 0,3551gam; 01 bộ dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy; 01 túi xách da màu đen.
Kết luận giám định số 534/MT-PC09 ngày 17/7/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định chất tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Hớn L là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,3551 gam.
Đối với người đàn ông tên C bán ma túy cho Lê Hớn L do chưa rõ nhân thân, lai lịch tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.
Tại cáo trạng số 357/CT–VKS-DA ngày 30 tháng 9 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Hớn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lê Hớn L mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong bên trong chứa 0,3029 gam, loại Methamphetamine vật hoàn lại sau giám định; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 01 túi xách da màu đen.
Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Lê Hớn L là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, có tên khoa học là Methamphetamine. Khoảng 14 giờ ngày 10/7/2019 tổ tuần tra Công an phường An Bình phối hợp với đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an thị xã Dĩ An tiến hành kiểm tra hành chính dãy trọ tại 577/19 khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh B, khi đến phòng số 10 do Lê Hớn L thuê, phát hiện 01 bộ dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy ở trên bàn vi tính trong phòng, tiếp tục kiểm tra thì phát hiện trong túi xách da màu đen treo trên tường (đối diện cửa ra vào phòng trọ) có 01 túi nilon miệng kéo dính, bên trong có chứa tinh thể màu trắng, L khai nhận là ma túy đá nên tổ tuần tra tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Kết luận giám định số 534/MT-PC09 ngày 17/7/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định chất tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Hớn L là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,3551 gam.
Hành vi của bị cáo tàng trữ 01 gói ma túy Methamphetamine, trọng lượng 0,3551 gam để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 357/CT–VKS- DA ngày 30 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự.
[7] Xử lý vật chứng: Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có 0,3029 gam ma túy Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định là chất nhà nước cấm; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 01 túi xách da màu đen không có giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.
[8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.
[9] Đối với người đàn ông tên C bán ma túy cho Lê Hớn L do chưa rõ nhân thân, lai lịch tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.
[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lê Hớn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lê Hớn L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/7/2019.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 0,3029 gam Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 01 túi xách da màu đen.
(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/10/2019, bút lục 71).
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Lê Hớn L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 369/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 369/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về