Bản án 368/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 368/2020/HS-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 328/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 343/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 6 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Huỳnh Văn P, sinh năm 1992 tại Đồng Tháp. Tên gọi khác: Không. Nơi cư trú: ấp PL, xã BT, huyện CL, tỉnh ĐT. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 8/12. Nghề nghiệp: Không. Chức vụ (đoàn thể, đảng phái): Không. Con ông Huỳnh Văn M, sinh năm 1955 và bà Huỳnh Thị S, sinh năm 1954. Gia đình bị cáo có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ tư và chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt giữ ngày 27/02/2020, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ thành phố Biên Hòa, có mặt.

2. Tăng Minh N, sinh năm 1987 tại Sóc Trăng. Tên gọi khác: Không. Nơi cư trú: ấp NT, xã ĐT, huyện MX, tỉnh ST. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khơme; Tôn giáo: Phật. Trình độ học vấn: 6/12. Nghề nghiệp: Không. Chức vụ (đoàn thể, đảng phái): Không. Con ông Tăng S, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị Hồng M, sinh năm 1959. Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ bị cáo tên Danh Thị Oanh, sinh năm 1984 và chưa có con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt giữ ngày 27/02/2020, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ thành phố Biên Hòa, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 30 phút ngày 26/02/2020, N và P rủ nhau thuê phòng số 1 của Nhà nghỉ “Khánh Hạ” thuộc phu phố 2 phường Tân Mai thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai để sử dụng trái phép chất ma túy. Tại đây, N và P mỗi người góp 250.000đ (hai trăm năm mươi nghìn đồng) được 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) để mua ma túy về sử dụng. Sau đó, P mang tiền đến khu vực chợ Tân Mai thuộc phu phố 2, phường Tân Mai, thành phố Biên Hòa mua của một người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) một gói ma túy với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Khoảng 21 giờ cùng ngày, P mang gói ma túy về phòng số 1- Nhà nghỉ “Khánh Hạ” cùng với N lấy một phần ra sử dụng chung, phần ma túy còn lại P cất giấu vào túi vải để trên bàn trong phòng số 1. Đến 11 giờ 15 phút, ngày 27/02/2020, tại phòng số 1 nhà nghỉ “Khánh Hạ” P và N bị Công an phường Tân Mai, thành phố Biên Hòa kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ lượng ma túy nêu trên.

Vật chứng trong vụ án, gồm:

-01 gói nylon bên trong có chứa tinh thể màu trắng để trong túi vải, P và N khai là ma túy (đã được niêm P có chữ ký của Huỳnh Văn P, Tăng Minh N và dấu hình tròn đỏ của Công an phường Tân Mai).

-01 điện thoại di động hiệu Samsung có số thuê bao 0563776720 có số imeil 357648101102577/01 của Tăng Minh N;

-01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung có số thuê bao 0349460643 có số imeil 357766071140276/01 của Huỳnh Văn P.

Tại Kết luận giám định số 396/KLGĐ-PC09, ngày 04/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm P gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3588 gam, loại Methamphetamine”.

Tại cáo trạng số 342/CT-VKSBH ngày 12/6/2020, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố các bị cáo Huỳnh Văn P, Tăng Minh N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, nêu tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Huỳnh Văn P, Tăng Minh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt mỗi bị cáo với mức hình phạt từ 01 (một) năm 04 (bốn) tháng đến 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng các bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:

Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi thực hiện tội phạm của các bị cáo:

Xét thấy, lời khai nhận tội của các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 27/02/2020, tại phòng số 1- Nhà nghỉ “Khánh Hạ” thuộc khu phố 2, phường Tân Mai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Huỳnh Văn P và Tăng Minh N đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,3588 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị Công an phường Tân Mai phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn và tội phạm khác, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt; không có tiền án, tiền sự; trình độ học vấn thấp, bị cáo N là người dân tộc Khơme nên nhận thức pháp luật còn hạn chế là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện để các bị cáo cải tạo trở thành công dân sống có ích cho xã hội.

[4] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của từng bị cáo và quyết định hình phạt:

Các bị cáo là các đồng phạm giản đơn, trong vụ án này, các bị cáo có vai trò ngang nhau, nên mức hình phạt của các bị cáo là tương đương nhau.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của từng bị cáo; căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần có mức án nghiêm, tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của từng bị cáo, cần thiết phải cách ly các bị cáo với xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về xử lý vật chứng trong vụ án:

-Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định.

-Thu giữ của bị cáo Tăng Minh N 01 điện thoại di động hiệu Samsung có số thuê bao 0563776720 có số imeil 357648101102577/01 do không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo N;

-Thu giữ của bị cáo Huỳnh Văn P 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung có số thuê bao 0349460643 có số imeil 357766071140276/01. Quá trình điều tra bị cáo P khai không sử dụng chiếc điện thoại này vào việc phạm tội. Tuy nhiên tọa phiên tòa, bị cáo P khai nhận đã sử dụng chiếc điện thoại này để liên lạc với người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) trao đổi việc mua ma túy, cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[6] Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp.

[7] Về các vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với đối tượng (chưa rõ lai lịch) bán ma túy cho bị cáo P, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[8] Quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn P 01 (một) năm 4 (bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 27/02/2020.

Xử phạt bị cáo Tăng Minh N 01 (một) năm 4 (bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 27/02/2020.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định trong 01 gói niêm P số 396/PC09-GĐMT ngày 04/3/2020.

Trả lại cho bị cáo Tăng Minh N 01 điện thoại di động Samsung số thuê bao 0563776720, số Imel 357648101102577/01 do không liên quan đến việc phạm tội.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung có số thuê bao 0349460643, số Imel 357766071140276/01 của bị cáo Huỳnh Văn P sử dụng vào việc phạm tội.

(Theo BB giao vật chứng số, tài sản ngày 25/6/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa).

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc Huỳnh Văn P, Tăng Minh N mỗi bị cáo phải nộp số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 368/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:368/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về