Bản án 368/2017/HS-ST ngày 30/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH - TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 368/2017/HS-ST NGÀY 30/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2017 tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 363/2017/TLST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 363/2017/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2017, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn C - sinh năm 1972 tại thành phố Đ, tỉnh Nam Định.

Nơi cư trú: Số 87 đường Y, phường T, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn A và bà Vũ Thị N; vợ: Đỗ Minh H (đã ly hôn); có 01 con.

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: - Ngày 12-01-1996, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Hà xử phúc thẩm 18 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài tản công dân và trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”;

- Ngày 03-9-1998 bị Công an tỉnh Nam Định bắt khởi tố về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 10-3-1999 Tòa án nhân dân tỉnh Nam

Định xử miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn C về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Ngày 15-6-2000, đi cơ sở giáo dục tại Suối Hai, Ba Vì, Hà Nội thời gian 24 tháng.

- Ngày 23-6-2005, đi cơ sở giáo dục tại Suối Hai, Ba Vì, Hà Nội thời gian 24 tháng.

- Ngày 11-8-2007, đi cơ sở giáo dục tại Suối Hai, Ba Vì, Hà Nội thời gian 24 tháng.

- Ngày 24-4-2010 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

- Ngày 12-11-2016, Công an phường Quang Trung, thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07-8-2017, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 13-8-2017 cho đến nay tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoang 09 giờ 20 phút ngay 07-8-2017, tổ công tác đội 6 thuộc phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa hiệu thuốc 124 đường N, phường N, thành phố Đ. Phát hiện Nguyễn Văn C đi bộ một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra, C thả từ tay trái xuống đất 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (C khai là gói Heroine). Tổ công tác đã niêm phong vật chứng đưa C cùng người làm chứng về tru sơ Công an lập biên ban bắt ngươi co hanh vi pham phap qua tang theo quy đinh cua phap luât. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của C 50.000 đồng.

Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 671/GĐKTHS ngày 10/08/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng thu giữ là chất ma túy, loại chất ma túy là Heroine, có trọng lượng 0,128 gam (không phẩy một hai tám gam).

Tai cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Văn C khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng đồng thời khai nhận về nguồn gốc gói ma túy như sau: Khoảng 9 giờ ngày 07-8-2017 Nguyễn Văn C đi bộ từ nhà ra khu vực dốc Lò Châu, ngã tư đường Đ + C để thuê xe ôm mục đích đi mua Heroin về sử dụng. Đến nơi, C gặp Nguyễn Văn H, C thuê H chở từ dốc Lò Châu đến khu vực ba tầng đường D, thành phố Đ mua của một nam thanh niên không quen biết 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Mua xong, C bảo H chở về. Khi đi đến trước cửa hiệu thuốc tân dược tại số 124 đường N, phường N, thành phố Đ, C bảo H dừng xe đợi, C đi bộ vào hiệu thuốc, khi vừa bước lên đến vỉa hè thì bị phát hiện kiểm tra, bắt giữ như đã nêu trên.

Đối với đối tượng đã bán gói ma túy cho C, tài liệu Cơ quan điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối với Nguyễn Văn H là người chở xe ôm, H không biết việc C đi mua ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra không đưa ra hình thức xử lý.

Bản cáo trạng số 379/QĐ-KSĐT ngày 08-11-2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Nguyễn Văn C tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội khóa 14; khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999: xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù; Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: Xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Văn C nói lời sau cùng: Xin Hội đồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn C không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn C phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoang 09 giơ 20 phút ngay 07-8-2017, Nguyễn Văn C đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,128 gam Heroine mục đích dể sử dụng thì bị bắt quả tang tại trước cửa số nhà 124 đường N, phường N, thành phố Đ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện nên bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về các tình tiết giảm nhẹ: Sau khi thực hiện tội phạm, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn C đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Ngoài ra, căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội khóa 14 quy định áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) theo hướng có lợi cho người phạm tội, Hội đồng xét xử sẽ vận dụng quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Xét bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử về nhiều tội khác nhau cho thấy bị cáo là đối tượng coi thường pháp luật, khó giáo dục, cải tạo. Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mứchình phạt nghiêm khắc ở giữa khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Nguyễn Văn C tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 50.000 đồng thu giữ của bị cáo xét thấy không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo song tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1999 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hộikhóa 14.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử  phạt bị cáo Nguyễn Văn C 24 tháng tù  (hai mươi tư tháng tù).Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 07-8-2017.

2. Xử lý vật chứng:

- Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn C 50.000 đồng song tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06-11-2017).

3. Án phí:

- Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.

Bị cáo Nguyễn Văn C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Nguyễn Văn C được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

318
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 368/2017/HS-ST ngày 30/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:368/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về