Bản án 367/2018/HS-PT ngày 19/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 367/2018/HS-PT NGÀY 19/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19/11/2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 342/HSPT/2018 ngày 16/10/2018 đối với bị cáo Y L Niê về tội “Trộm cắp tài sản” do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 225/2018/HS-ST ngày 07/09/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo có kháng cáo: Y L Niê; Tên gọi khác: Y G; Giới tính: Nam; Sinh ngày 10 tháng 01 năm 1991; Tại: Đắk Lắk; Nơi cư trú: Tổ dân phố 2, buôn D, phường E, thành phố M, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin Lành; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Y B Hwing, sinh năm 1958 (hiện không rõ nơi cư trú); Con bà: H Đ Niê (chết);

Tiền án: 02 tiền án.

- Ngày 05/02/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” tại bản án 26/2010/HSST ngày 05/02/2010. Ngày 24/9/2011 chấp hành xong hình phạt tù.

- Ngày 24/8/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 06 năm tù, về tội: “Cướp giật tài sản” tại bản án số 251/2012/HSST ngày 24/8/2012. Ngày 17/6/2017 chấp hành xong hình phạt tù. Bị cáo chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 31/5/2007, bị Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố M, tỉnh Đắk Lắk áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/5/2018. Hiện bị cáo đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 01 bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 29/4/2018, Bạch Quốc T cùng với Lương Hữu C, (tên thường gọi là Cu C), Phan Thành N và Y L Niê, (tên thường gọi là Y G) cùng nhau sử dụng chất ma túy đá tại chỗ ở của T, địa chỉ 96/7 Y Nuê, phường E, thành phố M, tỉnh Đắk Lắk. Đến khoảng 01 giờ, ngày 30/4/2018, T nảy sinh ý định đột nhập kho vật chứng của Công an thành phố M để chiếm đoạt chiếc xe Mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Air Blade, biển số 47B2-092.95, là vật chứng bị Cơ quan điều tra Công an thành phố M tạm giữ của T trước đó. Tuy nhiên, T không nói ý định cho N, C và Y L biết, mà chỉ nói với N “Mày chở anh lên phố, anh lấy cái xe” thì N đồng ý, rồi T điều khiển xe Mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Blade, biển số 47B2-058.71 của N chở N đi đến trụ sở Công an thành phố M, tỉnh Đắk Lắk. Khi đến nơi, thấy không có ai canh gác, nên T điều khiển xe vào bên trong trụ sở, rồi nói N ngồi đợi tại tiền sảnh, còn T đi bộ ra phía sau nơi có kho vật chứng để xem có ai canh gác hay không. Lúc này T thấy kho vật chứng đã khóa cửa và không có ai canh gác nên T tìm cách cạy cửa để lấy xe, nhưng lúc này T không có dụng cụ để cạy cửa, nên T quay ra và nói với N đi về lại chỗ ở của T.

Khi về đến nơi, T không rủ N đi nữa, mà rủ Y L Niê đi cùng nhưng T không nói rõ mục đích cho Y L biết, mà chỉ nói với Y L đi bắt trộm gà về nấu cháo, thì Y Lđồng ý. T nói Y L đi tìm kìm để dùng cắt cửa trộm gà, thì Y L mượn xe Mô tô biển số 47B2-058.71 của N về nhà lấy 01 cái kìm rồi quay lại chỗ ở của T. Lúc này khoảng 02 giờ 00 phút, sáng ngày 30/4/2018, T mượn xe mô tô của N điều khiển chở Y L đi đến trụ sở Công an thành phố M, tỉnh Đắk Lắk.

Khi đến nơi, quan sát không thấy người canh gác, nên T chạy xe vào trong sân của cơ quan Công an thành phố M. Lúc này Y L thấy có xe chuyên dụng của lực lượng Cảnh sát giao thông nên biết đây là trụ sở của Cơ quan Công an, Y L hỏi T “Ủa gà đâu anh”, thì T nói “Gà gì mà gà” rồi T đi bộ vòng ra kho vật chứng của Công an thành phố M, Y L cũng đi theo. Khi đến nơi thấy kho vật chứng không có ai trông coi, nên T nói với Y L là “Mày giúp anh cạy cửa này để anh lấy xe về, anh bị giữ xe lâu rồi, anh bực lắm rồi”, nghe vậy Y L mới biết T nhờ Y L đi cùng để giúp lấy trộm xe mà T bị cơ quan Công an tạm giữ, chứ không phải đi trộm gà, nhưng Y L vẫn đồng ý giúp T. Y L dùng kìm và mỏ lết (lượm được tại kho xe) kẹp vào khuy cửa bên trái, lắc qua lắc lại nhiều lần thì bẻ được khuy cửa và mở được cửa kho. T đi vào bên trong kho dắt chiếc xe Mô tô, loại xe Air Blade, biển số 47B2-092.95 ra ngoài rồi khép cửa kho lại, Y L vứt chiếc mỏ lết trên vào bãi đất trống gần đó rồi cùng T đẩy chiếc xe mô tô ra ngoài cổng. Sau khi lấy được xe, Y L ngồi lên xe Mô tô 47B2-092.95, còn T điều khiển xe Mô tô biển số 47B2-058.71 dùng chân đẩy xe Mô tô 47B2-092.95 về chỗ ở của T để cất xe. Khi về phòng trọ, T gọi C và N dậy rồi chỉ vào chiếc xe Air blade lấy được và nói “gà 125 ký kìa” thì C và N không nói gì, sau đó N đi về, còn C, T và Y L đi ngủ.

Đến khoảng 18 giờ, ngày 30/4/2018, T mang chiếc xe Mô tô biển số 47B2- 092.95 đến dịch vụ cầm đồ tại số 171 Lê Duẩn, phường E, thành phố M cầm cố chiếc xe cho anh Nguyễn Sỹ Kỷ N được số tiền 10.000.000 đồng và tiêu xài cá N hết. Đến ngày 01/5/2018, chị Lê Thị Thúy Q, thủ kho vật chứng phát hiện sựviệc và báo cáo cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố M để làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 chiếc kìm; 01 chiếc mỏ lết, 02 ổ khóa nhãn hiệu VSC; 01 chiếc xe Mô tô biển số 47B2-058.71 và 01 chiếc xe Mô tô biển số 47B2-092.95 để phục vụ công tác điều tra.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 95/KLĐG, ngày 14/5/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố M, kết luận: 01 xe Mô tô, nhãn hiệu Honda, loại xe Air Blade, biển kiểm soát 47B2-092.95, số máy: JF18E5129345, số khung: 18037Y629261, trị giá: 16.000.000đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 225/2018/HS-ST ngày 07/9/2018 của Tòaán nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã quyết định:

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Y L Niê phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Y L Niê 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01/5/2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử bị cáo khác và quyết định về xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 11/9/2018, bị cáo Y L Niê có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã được tóm tắt nêu trên.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Y L Niê về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo: Xét thấy mức hình phạt 03 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất mức độ do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ

các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Lời khai của bị cáo Y L Niê tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 02 giờ 00 phút, ngày 30/4/2018, Bạch Quốc T và Y L Niê đã đột nhập vào kho xe vật chứng của công an thành phố M để lấy lại chiếc xe mô tô mà Công an thành phố M đã tạm giữ của T trước đó, mang biển kiểm soát 47B2 – 092.95 trị giá 16.000.000 đồng, sau đó cầm cố lấy tiền tiêu xài. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Y L Niê về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS là có căn cứ pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [2] Xét mức hình phạt 03 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo Y L Niê là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Bị cáo nhiều lần vi phạm pháp luật và đã bị xử lý hình sự. Sau khi chấp hành xong hình phạt, bị cáo không lấy đó là bài học cho bản thân mình mà còn tiếp tục phạm tội, điều này thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Quá trình xét xử tại cấp sơ thẩm, Tòa án đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

 [3] Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

 [4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Y L Niê - Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 225/2018/HS-ST ngày 07/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

- Xử phạt bị cáo Y L Niê 03 (ba) năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01/5/2018.

Về án phí: Bị cáo Y L Niê phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 367/2018/HS-PT ngày 19/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:367/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về