TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 363/2019/HSPT NGÀY 21/06/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 21 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 31/2018/HSPT ngày 15 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo Đặng Văn Ch do có kháng cáo của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2017/HSST ngày 05 tháng 12 năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên.
* Bị cáo bị kháng cáo: Đặng Văn Ch (tên gọi khác là Ch2), sinh năm 1974; nơi đăng ký hộ khẩu tại thôn ĐT, xã TQ, huyện YS, tỉnh Tuyên Quang; khi phạm tội đang chấp hành án tại Phân trại số 1, Trại giam Phú Sơn 4 thuộc Tổng cục VIII Bộ Công an; dân tộc Dao; trình độ văn hóa lớp 1; không nghề nghiệp; con ông Đặng Văn Th và bà Lý Thị Đ; chưa có vợ, con;
Có 3 tiền án:
- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 50/2008/HSST ngày 21/5/2008 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Đặng Văn Ch 30 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; thời hạn tù tính từ ngày 31/01/2008.
- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 26/2009/HSST ngày 24/6/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xử phạt Đặng Văn Ch tù chung thân về tội giết người; tổng hợp với 30 tháng tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 50/2008/HSST ngày 21/5/2008 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, buộc Đặng Văn Ch phải chấp hành hình phạt chung hai bản án là tù chung thân; thời hạn tù tính từ ngày 31/01/2008.
- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/2015/HSST ngày 25/3/2015 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Đặng Văn Ch 01 năm 09 tháng tù về tội cố ý gây thương tích; tổng hợp với hình phạt tù chung thân tại bản án hình sự sơ thẩm số 26/2009/HSST ngày 24/6/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, buộc Đặng Văn Ch phải chấp hành hình phạt chung là tù chung thân; thời hạn tù tính từ ngày 31/01/2008.
Nhân thân:
+ Ngày 15/10/ 1996 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản công dân;
+ Ngày 14/11/2000 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản;
+ Ngày 21/4/2003 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 42 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.
Hiện nay Đặng Văn Ch đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.
* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Mạnh An, Văn phòng Luật sư An Toàn thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thái Nguyên; có mặt.
* Người bị hại có kháng cáo: Anh Nguyễn Minh Ch1, sinh năm 1974; nơi đăng ký hộ khẩu tại số 22 Nam Ngư, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đặng Văn Ch, Nguyễn Minh Ch1, Nguyễn Tiến Ph (sinh năm 1988) đều là phạm nhân đang chấp hành án tại Trại giam Phú Sơn 4 thuộc Tổng cục VIII Bộ Công an, đóng trên địa bàn xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Quá trình cải tạo, Đặng Văn Ch chơi thân với Nguyễn Tiến Ph. Ngày 11/3/2016 do mâu thuẫn trong sinh hoạt nên Nguyễn Minh Ch1 đã đánh Nguyễn Tiến Ph bị thương; sau đó Ch bị kỷ luật giam riêng với thời gian sáu tháng. Đến ngày 31/8/2016 Ch hết thời hạn kỷ luật nên được ra lao động bình thường. Do chơi thân với Ph nên sau khi biết Ph bị Ch1 đánh, Ch đã chuẩn bị hung khí chờ có cơ hội sẽ đánh Ch1 để trả thù cho Ph. Cụ thể: Ch tự chế một chiếc dùi sắt dài 19cm được mài nhọn một đầu và lấy ở khu vực vườn hoa trước cửa miếu của Phân trại một cục bê tông xi măng màu nâu loang hình trụ vát trọng lượng 500 gam, chu vi 26,5cm, phần cao nhất 6,5cm đem về để ở gần khu buồng giam, sau đó Ch lấy chiếc quần phạm nhân dùng dao lam cắt lấy hai ống quần mỗi ống dài khoảng 70cm lồng vào nhau dùng dây cao su buộc túm một đầu lại rồi cho cục bê tông vào trong; sau khi chuẩn bị xong hung khí trên, Ch cất giấu ở khu gần buồng giam.
Khoảng 14 giờ ngày 13/9/2016 khi chuẩn bị đi ra tập trung xếp hàng tại sân chung của Phân trại để điểm danh, nghe thông báo một số quyết định kỷ luật của phạm nhân sau đó đi lao động thì Ch đi đến nơi cất dấu hung khí trên, lấy chiếc dùi sắt đút vào túi quần bên phải đang mặc, đồng thời lấy chiếc ống quần có cục bê tông bên trong cho vào chiếc mũ lá cọ úp mũ vào bụng đi ra khu vực sân tập trung. Ch quan sát thấy Ch1 đang ngồi xổm xếp ở cuối hàng, Ch liền đi đến phía sau lưng cách Ch1 khoảng 01m, Ch dùng tay phải cầm một đầu ống quần trong có cục bê tông giơ lên vụt mạnh một nhát từ trên xuống trúng vào đỉnh đầu Ch1 làm Ch1 bị ngã ra sân bê tông. Ch tiếp tục vụt liên tiếp hai nhát nữa vào mặt, mũi Ch1, cùng lúc này Ch bị cán bộ Trại khống chế nên không đánh được Ch1 nữa. Sau khi bị đánh, Ch1 chảy nhiều máu ở vùng đầu, mặt, mũi và bị ngất nên được đưa ngay đến Bệnh viện A Thái Nguyên cấp cứu điều trị đến ngày 20/9/2016 ra viện sau đó tiếp tục được điều trị tại Bệnh xá Trại giam Phú Sơn 4.
Bệnh án Bệnh viện A Thái Nguyên ngày 13/9/2016 xác định Nguyễn Minh Ch1 vết thương vùng đỉnh kích thước 5 x 7cm dập nát phức tạp, chảy nhiều máu vùng đỉnh, chảy nhiều máu mũi, chấn thương sọ não. Kết quả chụp cắt lớp vi tính xác định Nguyễn Minh Ch1 bị vỡ lún xương đỉnh phải, vỡ thành trước và trong xương hàm trái, vỡ xương mũi và xương lá mía.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 277/TgT ngày 10/11/2016 Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Thái Nguyên kết luận: Nguyễn Minh Ch1 chấn thương sọ não, xuất huyết dưới nhện đã điều trị không có di chứng thần kinh, vỡ lún xương đỉnh phải, vỡ thành xoang hàm trái, vỡ xương mũi đã can; hiện tại có 01 vết sẹo kích thước trung bình, 02 sẹo kích thước nhỏ. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 40%.
Quá trình Nguyễn Minh Ch1 nằm viện, toàn bộ chi phí điều trị do Trại Phú Sơn 4 chi trả và Trại không yêu cầu giải quyết việc bồi hoàn. Nguyễn Minh Ch1 yêu cầu Đặng Văn Ch bồi thường thiệt hại về sức khỏe với tổng số tiền là 50.000.000đ, Đặng Văn Ch chưa thực hiện việc bồi thường.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2017/HSST ngày 05/12/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã quyết định:
Áp dụng điểm n, p khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 18; khoản 3 Điều 52; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Đặng Văn Ch 18 năm tù về tội “Giết người”. Tổng hợp với hình phạt tù chung thân tại Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2015/HSST ngày 25/3/2015 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, buộc Đặng Văn Ch phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là tù chung thân; thời hạn tù tính từ ngày bắt giam của bản án trước, ngày 31/01/2008.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, người bị hại Nguyễn Minh Ch1 có đơn kháng cáo. Tại biên bản xác minh ngày 26/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, người bị hại xác định nội dung kháng cáo là tăng hình phạt đối với bị cáo Đặng Văn Ch.
Ngày 20/3/2019, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử vụ án, do người bị hại vắng mặt không rõ lý do nên Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa.
Trước khi mở phiên tòa, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã tiến hành xác minh và được Công an phường Cửa Nam cho biết: Sau khi chấp hành án trở về anh Nguyễn Minh Ch1 đã chuyển khẩu khỏi địa Ph, không rõ nơi chuyển đến. Do vậy, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã tiến hành niêm yết Giấy triệu tập và Quyết định đưa vụ án ra xét xử tại UBND phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội và địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của anh Ch1.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người bị hại Nguyễn Minh Ch1 vắng mặt tại phiên tòa ngày 20/3/2019 và tại phiên tòa hôm nay không rõ lý do. Theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người bị hại theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Bị cáo Đặng Văn Ch khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa có quan điểm: Bản án sơ thẩm đã xét xử đúng người, đúng tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hậu quả chết người chưa xảy ra là ngoài ý thức chủ quan của bị cáo. Mức hình phạt 18 năm tù mà bản án sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là thỏa đáng. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của người bị hại về việc tăng hình phạt đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự để giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
- Người bào chữa cho bị cáo Đặng Văn Ch có quan điểm: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hậu quả chết người chưa xảy ra. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Đặng Văn Ch tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm và trong giai đoạn điều tra; phù hợp khách quan với các chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án như: Lời khai của người bị hại, người làm chứng, sơ đồ, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết quả giám định thương tích của người hị hai. Hội đồng xét xử phúc thẩm đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 14h ngày 13/9/2016 tại khu vực sân của Phân trại số 1 Trại giam Phú Sơn 4, với mục đích trả thù cho bạn tù bị anh Nguyễn Minh Ch1 cũng là phạm nhân đánh trước đây, Đặng Văn Ch đã có hành vi dùng cục bê tông có trọng lượng 500gam giấu trong hai chiếc ống quần lồng vào nhau vụt nhiều nhát vào đầu, mặt anh Nguyễn Minh Ch1. Do được can thiệp và cấp cứu kịp thời nên anh Nguyễn Minh Ch1 không chết, chỉ bị tổn hại 40% sức khỏe. Căn cứ vào hành vi khách quan, ý thức chủ quan và nhân thân của bị cáo, Bản án sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội giết người có tính chất côn đồ, phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị hại về việc tăng hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Tội phạm của bị cáo được quy định tại điểm n, p khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999 có khung hình phạt tù từ 12 năm, hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 18 Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 1999 về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt, mức hình phạt áp dụng với bị cáo không vượt quá 20 năm tù. Xét thấy, bị hại anh Nguyễn Minh Ch1 bị tổn hại 40% sức khỏe, nên mức hình phạt 18 năm tù mà bản án sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo Đặng Văn Ch là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm mà hành vi của bị cáo đã gây ra, phù hợp với nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999), không nhẹ như kháng cáo của bị hại.
[3] Với những phân tích và nhận định như trên, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa về việc không chấp nhận kháng cáo tăng nặng hình phạt của bị hại đối với bị cáo, giữ nguyên hình phạt 18 năm tù của bản án sơ thẩm đối với bị cáo là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Đề nghị của bị cáo và người bào chữa cho bị cáo về việc giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Hội đồng xét xử còn nhận thấy:
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/2015/HSST ngày 25/3/2015 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Đặng Văn Ch 01 năm 09 tháng tù về tội cố ý gây thương tích; áp dụng quy định tại Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1999 tổng hợp với hình phạt tù chung thân tại bản án hình sự sơ thẩm số 26/2009/HSST ngày 24/6/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, buộc Đặng Văn Ch phải chấp hành hình phạt chung là tù chung thân; thời hạn tù tính từ ngày 31/01/2008.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 02/2010/NQ-HĐTP ngày 22-10-2010 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn: “Trường hợp bị cáo bị truy tố về một hoặc một số tội thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện mà khi thụ lý vụ án xét thấy bị cáo đã bị áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình tại một bản án khác và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật thì Toà án nhân dân cấp huyện phải báo cáo với Toà án nhân dân cấp tỉnh để Toà án nhân dân cấp tỉnh thống nhất với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh rút hồ sơ vụ án lên để truy tố, xét xử ở cấp tỉnh”. Như vậy, việc Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xét xử đối với bị cáo Đặng Văn Ch khi mà trước đó bị cáo đã bị xử phạt tù chung thân và tiến hành tổng hợp hình phạt tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/2015/HSST ngày 25/3/2015 là chưa đúng hướng dẫn. Trước khi xét xử hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Văn Ch lần này (phạm tội với anh Nguyễn Minh Ch1) lẽ ra Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên cần trao đổi để Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xem xét về việc tổng hợp hình phạt theo thẩm quyền, trên cơ sở đó khi xét xử vụ án sẽ tổng hợp hình phạt của các bản án. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo đã chấp hành hình phạt và cho dù Tòa án nào tổng hợp hình phạt thì bị cáo Đặng Văn Ch vẫn phải chấp hành hình phạt chung là tù chung thân, không gây bất lợi hoặc có lợi cho bị cáo. Do đó Hội đồng xét xử nêu và nhận xét để rút kinh nghiệm chung.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị hại - anh Nguyễn Minh Ch1 về việc đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Đặng Văn Ch (tên gọi khác: Ch1). Giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2017/HSST ngày 05/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên như sau:
Áp dụng điểm n, p khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 18; khoản 3 Điều 52; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt Đặng Văn Ch 18 năm tù về tội “Giết người”. Tổng hợp với hình phạt tù chung thân tại Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2015/HSST ngày 25/3/2015 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, buộc Đặng Văn Ch phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là tù chung thân; thời hạn tù tính từ ngày bắt giam của bản án trước, ngày 31/01/2008.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành.
Bản án 363/2019/HS-PT ngày 21/06/2019 về tội giết người
Số hiệu: | 363/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về