TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 363/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2019 VỀ LY HÔN
Ngày 12 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 97/2018/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 3 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1367/2019/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Ngọc H, sinh năm 1975 Địa chỉ: Đường K, PH N, quận P, Thành phố H (vắng mặt).
Bị đơn: Ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T), sinh năm 1958 Quốc tịch: Canada.
Địa chỉ: 4488 Gladstone Vancouver BC V5N 4Z6, Canada (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 05/3/2018, bản tự khai ngày 06/4/2018 của nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc H trình bày:
Bà và ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) tự nguyện kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 527, Quyển số 3 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 21/2/2012. Sau khi kết hôn, từ tháng 02/2012 đến tháng 4/2017 ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) mỗi năm về Việt Nam một lần, mỗi lần về từ một đến ba tháng và ông bà có chung sống với nhau tại địa chỉ F1/8/8Q Hương Lộ 80, ấp 6C Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh và ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) có đăng ký tạm trú một lần vào thời điểm đăng ký kết hôn tại địa chỉ F1/8/8Q Hương Lộ 80, ấp 6C Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ tháng 8/2016 đến nay ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) không quay về Việt Nam. Tại thời điểm chung sống bà và ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) tH xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống nên đã không còn liên lạc với nhau. Nay bà và ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) mỗi người sống một nơi, điều kiện sống chung không có, tình cảm không được vun đắp, khả năng đoàn tụ gia đình không có. Do đó, bà H làm đơn khởi kiện gửi Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị được ly hôn với ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) để có điều kiện ổn định cuộc sống.
Con chung, tài sản chung và nợ chung: Bà Phạm Thị Ngọc H khai không có.
Bà Phạm Thị Ngọc H xin được vắng mặt khi tòa án giải quyết vụ án.
Ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thủ tục tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án và ngày, giờ mở phiên tòa nhưng việc tống đạt này không thực hiện được vì không có người nhận tại địa chỉ được yêu cầu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý sơ thẩm và xét xử. Về phía các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền của mình theo Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Bà Phạm Thị Ngọc H khai không còn tình cảm với ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T), cuộc sống chung không hạnh phúc nên yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị Ngọc H có cơ sở chấp nhận. Về con chung, tài sản chung và nợ chung bà Phạm Thị Ngọc H khai không có, không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng:
Bà Phạm Thị Ngọc H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Phạm Thị Ngọc H.
Đối với ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T), Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp cho ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) theo quy định pháp luật nhưng việc tống đạt không thành. Do đó Tòa án tiến hành thủ tục đăng Thông báo về việc giải quyết vụ án ly hôn giữa bà Phạm Thị Ngọc H và ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) trên Cổng thông tin điện tử và đồng thời niêm yết tại trụ sở Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Vancouver, Canada. Tòa án đã thực hiện các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng ông Nguyen 2 Tan T (Nguyễn Trọng T) không có văn bản trả lời và vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ Điều 227, Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T).
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân:
Bà Phạm Thị Ngọc H và ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) tự nguyện đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 527, Quyển số 3 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 21/2/2012 nên là hôn nhân hợp pháp.
Về yêu cầu xin ly hôn của bà Phạm Thị Ngọc H, Hội đồng xét xử XÉT THẤY
Ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) định cư ở Canada. Sau khi kết hôn, từ tháng 02/2012 đến tháng 4/2017 ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) mỗi năm về Việt Nam một lần, mỗi lần về từ một đến ba tháng và ông bà có chung sống với nhau tại địa chỉ F1/8/8Q Hương Lộ 80, ấp 6C Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh và ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) có đăng ký tạm trú một lần vào thời điểm đăng ký kết hôn tại địa chỉ F1/8/8Q Hương Lộ 80, ấp 6C Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ tháng 8/2016 đến nay ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) không quay về Việt Nam. Tại thời điểm chung sống bà và ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) tH xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống nên đã không còn liên lạc với nhau. Nay bà Phạm Thị Ngọc H xác nhận không còn tình cảm với ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T), xét hiện nay mỗi người sống một nơi, tình cảm vợ chồng không có điều kiện hàn gắn, hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, yêu cầu của bà Phạm Thị Ngọc H xin ly hôn ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T) là có cơ sở, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.2] Về con chung: Bà Phạm Thị Ngọc H khai không có, không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xét.
[2.3] Về nợ chung và tài sản chung: Bà Phạm Thị Ngọc H khai không có, không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xét.
[3] Về án phí:
Bà Phạm Thị Ngọc H là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
[4] Về chi phí tố tụng khác:
Do Cơ quan có thẩm quyền của Canada đã nhận được chi phí thực tế ủy thác tư pháp do bà Phạm Thị Ngọc H trực tiếp chuyển khoản. Bà Phạm Thị Ngọc H đã đóng đủ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273, Điều 477, Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự:
Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 122, Điều 123 Luật Hôn nhân và Gia đình; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban tH vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, Tuyên xử:
1. Về hôn nhân:
Cho ly hôn giữa bà Phạm Thị Ngọc H và ông Nguyen Tan T (Nguyễn Trọng T)
2. Về con chung: Không có, Tòa án không giải quyết.
3. Về nợ chung và tài sản chung: Không yêu cầu, Tòa án không giải quyết.
4. Về án phí sơ thẩm:
Bà Phạm Thị Ngọc H chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số AA/2017/0044011 ngày 19/3/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Phạm Thị Ngọc H đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
5. Về chi phí tố tụng khác: Bà Phạm Thị Ngọc H đã đóng đủ.
6. Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn có quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Bị đơn có quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Bản án 363/2019/HNGĐ-ST ngày 12/04/2019 về ly hôn
Số hiệu: | 363/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về