Bản án 36/2021/HSST ngày 20/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 36/2021/HSST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:43/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị Yến N, sinh năm: 1993 tại Gia Lai, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 6, phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai; chỗ ở trước khi bị bắt: Tổ 5, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm: 1957 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1958; chồng là ông Hồ Đức Q, sinh năm: 1990 (đã ly hôn), chồng là ông Ngô Hoàng P, sinh năm: 1993 (đã ly hôn); có 03 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án: Không, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 29/10/2020 cho đến nay. Hiện bị cáo đang tại ngoại. Có mặt.

2. Nguyễn Duy T, sinh năm: 1994 tại Gia Lai, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn 6, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai; chỗ ở trước khi bị bắt: Tổ 5, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm: 1972 và bà Nguyễn Thị Mộng H, sinh năm 1972; vợ là Nguyễn Thị Bích P (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2013; tiền án: Không, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 14/4/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 22 tháng, ngày 10/10/2017 chấp hành xong. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/10/2020 đến ngày 29/10/2020, sau đó chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị Thanh H, sinh năm: 1985, địa chỉ: Tổ 7, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Trần Nam T, sinh năm: 1972; địa chỉ: Tổ 5, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Yến N và Nguyễn Duy T có quen biết nhau và đều là người có sử dụng chất ma túy. Qua các mối quan hệ ngoài xã hội, N có số điện thoại của đối tượng Tr (chưa rõ nhân thân, lai lịch) là người bán ma túy. Khoảng 14 giờ ngày 20/10/2020, N đến trước cổng bến xe Đ, phường T, thành phố P gặp đối tượng Tr mua 01 gói ma túy (loại Methamphetamine) với giá 1.800.000 đồng. Sau đó, N mang gói ma túy về phòng trọ số 02 tại hẻm 487 đường Nguyễn Viết X, Tổ 5, phường H lấy một ít ra sử dụng; số ma túy còn lại, N sử dụng que tăm, bật lửa và bì nilon phân chia thành 04 gói nhỏ cất giấu tại phòng trọ nhằm mục đích bán lại kiếm lời. Khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày, T đến phòng trọ của N hỏi mua ma túy (loại Methamphetamine) để sử dụng nhưng T chưa có tiền nên N bán nợ cho T 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng, T cầm gói ma túy cất vào túi quần sau bên trái; 03 gói ma túy còn lại, N cất giấu dưới bàn trong phòng trọ với mục đích có ai hỏi mua sẽ bán với giá 500.000 đồng/gói. Đến 16 giờ cùng ngày, N và T đang ngồi chơi tại phòng trọ của N thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố P phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trong túi quần sau bên trái của T 01 gói nilon chứa chất màu trắng dạng tinh thể (được niêm phong đánh số “I”); phát hiện và thu giữ dưới bàn tại vị trí ngồi của N 03 gói nilon chứa chất màu trắng dạng tinh thể (được niêm phong đánh số “II”). Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ 01 điện thoại di động Nokia màu xanh kèm sim số của N và 01 điện thoại Nokia màu vàng kèm sim số của T.

Tại Kết luận giám định số 762/KLGĐ ngày 29/10/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “Chất màu trắng dạng tinh thể trong 01 gói nilon, trong bì thư ghi “I” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,2819 gam. Chất màu trắng dạng tinh thể trong 03 gói nilon, trong bì thư ghi “II” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,5382 gam”.

Đối với chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định trong 02 bì công văn cùng số 762/PC09 ngày 29/10/2020 có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P chuyển theo vụ án để xử lý.

Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh kèm sim số, N khai đã sử dụng để liên lạc với đối tượng Tr mua ma túy; chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng kèm sim số thu giữ của bị can T, qua điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P chuyển theo vụ án để xử lý.

Đối với dụng cụ để sử dụng ma túy cùng với các công cụ gồm: Tăm, bật lửa và bì nilon mà N đã sử dụng để phân chia ma túy, sau khi phân chia và sử dụng ma túy xong, N đã mang đi vứt vào bì rác nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Tại Bản cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 28-01-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo Nguyễn Duy T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và truy tố bị cáo Nguyễn Thị Yến N về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Duy T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo Nguyễn Thị Yến N về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T mức án từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38, Điều 50, điểm s, n khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Yến N mức án từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 09 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; tịch thu tiêu hủy 02 bì công văn niêm phong số 762/PC09 ngày 29/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai; tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh kèm sim số, trả lại cho bị cáo T 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng kèm sim số, buộc bị cáo N, bị cáo T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thị Yến N, Nguyễn Duy T khai nhận về hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi đúng như nội dung mà bản Cáo trạng đã truy tố. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Có đủ cơ sở xác định khoảng 14 giờ ngày 20/10/2020, Nguyễn Thị Yến N có hành vi mua trái phép chất ma túy của đối tượng Tr với giá 1.800.000 đồng, sau đó đem về phòng trọ tại hẻm 487 đường Nguyễn Viết X, tổ 5, phường H sử dụng một ít và phân ra 04 gói nhỏ mục đích bán kiếm lời. Đến khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày, Nguyễn Thị Yến N bán nợ cho Nguyễn Duy T 01 gói với giá 300.000 đồng, T sau khi mua ma túy của N thì cất vào túi quần. Đến 16 giờ cùng ngày, N và T bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai phát hiện bắt quả tang. Kết quả giám định xác định 01 gói nilon chứa chất màu trắng thu trong người Nguyễn Duy T là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,2819 gam và 03 gói nilon chất màu trắng thu giữ của Nguyễn Thị Yến N là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,5382 gam. Hành vi đó của bị cáo Nguyễn Thị Yến N đã phạm vào tội mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự, hành vi của bị cáo Nguyễn Duy T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố các bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Ma túy là chất kích thích, gây nghiện, hạn chế sử dụng; việc lạm dụng là rất nguy hiểm, là mối nguy hại lớn cho đời sống văn hóa tinh thần, trật tự an toàn xã hội. Do đó thuộc sự quản lý, kiểm soát nghiêm ngặt của cơ quan quản lý nhà nước nhằm không gây nguy hiểm cho xã hội. Việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán phải tuân thủ đúng qui định của pháp luật. Mọi hành vi vi phạm các qui định này đều bị pháp luật nghiêm trị.

[4] Bị cáo N và bị cáo T là người đã thành niên, có đủ khả năng lao động, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, bị cáo N hoàn toàn nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy bị nhà nước nghiêm cấm và bị xử lý nghiêm, nhưng vì nghiện ma túy, lười lao động, muốn có tiền tiêu xài để thỏa mãn nhu cầu bản thân, nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, phạm tội nghiêm trọng; bị cáo T biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện muốn có ma túy để sử dụng nên bị cáo đã mua ma túy của bị cáo N để sử dụng. Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy mà còn làm ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần xử lý nghiêm bằng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức chấp hành pháp luật, cai nghiện để thành công dân có ích cho xã hội, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[5] Bị cáo N, bị cáo T không có tình tiết tăng nặng; bị cáo T có nhân thân xấu, ngày 14/4/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 22 tháng, chấp hành xong ngày 10/10/2017, bị cáo không lấy đó là bài học kinh nghiệm để tu dưỡng, rèn luyện bản thân, phấn đấu cải tạo tốt mà thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, do đó cần xử nghiêm đối với bị cáo.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo N có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo N hiện đang mang thai, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo N, bị cáo T thành khẩn khai báo nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s, n khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo N; áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo T khi quyết định hình phạt.

[7] Về hình phạt bổ sung: Qua xem xét tình hình tài sản của bị cáo N, bị cáo T, các bị cáo không có tài sản gì đảm bảo cho việc thi hành án. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định là chất cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh kèm sim số bị cáo N đã sử dụng để liên lạc mua ma túy cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng kèm sim số của bị cáo T không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo T.

[9] Về án phí: Bị cáo N, bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Yến N phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s, n khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Yến N 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 20/10/2020.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu và tiêu hủy 02 bì công văn niêm phong ghi số 762/PC09 ngày 29/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh kèm sim số.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Duy T 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng kèm sim số.

(Đặc điểm các vật chứng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 41/2021 ngày 03/02/2021 giữa Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia Lai).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Yến N, bị cáo Nguyễn Duy T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thị Yến N, bị cáo Nguyễn Duy T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2021/HSST ngày 20/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về