TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 36/2021/HSPT NGÀY 18/01/2021 VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 546/HSPT ngày 10/11/2020 đối với bị cáo Võ Hoàng N do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 88/2020/HSST ngày 30/09/2020 của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
Võ Hoàng N (Tên gọi khác: Hùng); Giới tính: Nam; Sinh năm: 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 124/25 Xóm Đất, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Võ Văn U và bà Trần Thị L; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào trưa ngày 02/5/2020, ông Phạm Hoài T đang đi chơi ở Vũng Tàu thì phát hiện sim điện thoại số thuê bao của mình bị mất kết nối, ông T tưởng sim bị mất sóng nên không để ý. Đến sáng ngày 03/5/2020, em của ông T là bà Phạm Thị Song T1 vẫn không liên lạc được với ông T nên liên lạc với vợ của ông T để gặp ông T và hỏi về việc ông T bị xử phạt vi phạm hành chính khi tham gia giao thông như thế nào mà phải mượn tiền và yêu cầu chuyển số tiền 8.000.000 đồng vào tài khoản cho ông T. Ông T xác định không mượn tiền của bà T1 nên nghi ngờ và kiểm tra thì phát hiện số điện thoại thuê bao 0931472246 của mình đã bị người khác sử dụng. Ông T cùng bà T1 liên hệ đại lý điện thoại của Công ty MobiFone thì phát hiện số điện thoại 0931472246 của mình đã bị đối tượng Võ Hoàng N đăng ký lại thông tin chủ sở hữu. Ông T kiểm tra tài khoản Momo của mình thì phát hiện đã bị chiếm đoạt 1.000.000 đồng (chưa tính phí giao dịch) và tài khoản tại Ngân hàng T mại Cổ phần Sacombank số 060106120962 bị chiếm đoạt 11.000.000 đồng (chưa tính phí giao dịch). Ông T yêu cầu Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sacombank phong tỏa tài khoản, yêu cầu MobiFone đăng ký lại chủ sở hữu số thuê bao 0931472246 rồi cùng bà T đến Công an Phường 8, Quận 11 trình báo sự việc. Công an Phường 8, Quận 11 tiếp nhận tin báo ban đầu, lập hồ sơ chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 xử lý.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, N khai nhận: Vào cuối tháng 4/2020, khi tham gia nhóm “Bạn hữu đường xa” trên ứng dụng Facebook, N thấy tài khoản “Thương Drive” sử dụng ứng dụng Momo để giao dịch tiền hàng. N nghĩ trong tài khoản Momo của “Thương Driver” có tiền nên nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền này. N tìm được số điện thoại của tài khoản “Thương Driver” là 0931472246 và các số điện thoại thường xuyên liên lạc với số 0931472246. Đến ngày 02/5/2020, N đến cửa hàng MobiFone tại địa chỉ số 601 Bình Thới, Phường 10, Quận 11 yêu cầu đăng ký chủ sở hữu đối với số thuê bao 0931472246. Do N cung cấp được các số điện thoại thường liên lạc với số 0931472246 nên N viên đại lý MobiFone làm thủ tục đăng ký thông tin chủ sở hữu và cấp sim mới mang số 0931472246 cho N. Sau đó, N mang sim gắn vào điện thoại di động Samsung màu vàng đồng của mình, tải ứng dụng ví điện tử MoMo rồi đăng nhập vào tài khoản Momo của ông Phạm Hoài T. N đăng nhập vào mục quên mật khẩu để yêu cầu ví MoMo gửi lại mã OTP vào số điện thoại 0931472246. Khi có mã OTP, N đăng nhập vào ví điện tử MoMo của ông T rồi chuyển số tiền 1.000.000 đồng (chưa tính phí giao dịch) vào tài khoản tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Techcombank của mình theo số tài khoản 19034031380017 và tiếp tục đăng nhập vào tài khoản Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sacombank theo số tài khoản 060106120962 của ông T để chuyển số tiền 11.000.000 đồng (chưa tính phí giao dịch) vào tài khoản tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Techcombank của N. Bằng thủ đoạn tương tự, N tiếp tục đăng nhập vào tài khoản Zalo của ông T, nhắn tin qua Zalo và SMS cho bà Phạm Thị Song T1 là em của ông T.
N giả danh ông T nói đang đi xa cần tiền nên hỏi mượn tiền và yêu cầu bà T1 chuyển vào tài khoản của ông T tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sacombank với số tiền là 8.000.000 đồng. Bà T1 thấy số điện thoại của ông T nên tin tưởng, nghĩ là ông T đang cần tiền nên đã nhờ ông Nguyễn Trung D chuyển 8.000.000 đồng vào tài khoản cho ông T. Khi thấy tiền có trong tài khoản của ông T, N thực hiện thao tác chuyển số tiền trên vào tài khoản của mình rồi đến các trụ ATM, rút tổng cộng được 19.900.000 đồng. Số tiền này, N tiêu xài hết 400.000 đồng, cho mẹ là bà Trần Thị L số tiền 2.500.000 đồng, cất giữ tại nhà 7.000.000 đồng và mang theo trong người 10.000.000 đồng. N đã mua thẻ cào điện thoại di động qua ứng dụng Momo hết 50.000 đồng, ngoài ra, giữa các lần giao dịch chuyển tiền, rút tiền, N đã chịu 100.000 đồng tiền phí, vì vậy, trong tài khoản thẻ ATM của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Techcombank của N còn lại 50.000 đồng.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, bà Trần Thị L, ông Phạm Hoài T, bà Phạm Thị Song T1 và ông Nguyễn Trung D có lời khai phù hợp với lời khai của Phạm Hoài T Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 88/2020/HSST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh:
Tuyên bố bị cáo Võ Hoàng N phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 290; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: bị cáo Võ Hoàng N 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn còn giải quyết về trách nhiệm dân sự, vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/10/2020, bị cáo Võ Hoàng N có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt hành vi phạm tội, hậu quả tội phạm mà bị cáo Võ Hoàng N thực hiện đã nhận định: mức hình phạt 02 (hai) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Võ Hoàng N là thỏa đáng, không nặng, đúng tội danh. Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới để có thể xem xét cho bị cáo được hưởng án treo. Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Hoàng N mà giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Hoàng N khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 11, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân Quận 11, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Võ Hoàng N thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp biên bản khám xét, biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, biên bản hỏi cung bị can, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Do vậy có đủ cơ sở để kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 02/5/2020 đến ngày 05/5/2020 Võ Hoàng N đã dùng điện thoại di động thông qua mạng Internet đăng nhập vào tài khoản Momo, tài khoản ngân hàng Sacombank của ông Phạm Hoài T để chiếm đoạt số tiền 12.100.000 đồng của ông T Ngoài ra, thông qua tài khoản Zalo, tài khoản ngân hàng của ông T, bị cáo N đã chiếm đoạt 8.000.000 đồng của bà Phạm Thị Song T1. Đối chiếu với quy định của pháp luật nên có căn cứ để xác định bị cáo N đã phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 2 Điều 290 của Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã kết tội bị cáo theo tội danh và điều luật đã nêu là có căn cứ.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Võ Hoàng N kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo N giữ nguyên nội dung kháng cáo xin. Kháng cáo của bị cáo N làm trong hạn luật định là hợp lệ.
Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường cho bị hại, khắc phục hậu quả để từ đó áp dụng điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự và xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo N là phù hợp với quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Hoàng N không xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới, đồng thời trong vụ án này bị cáo phạm tội nhiều lần nên thuộc trường hợp không được hưởng án treo.
Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Hoàng N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo Võ Hoàng N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Hoàng N; giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 88/2020/HSST, ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 290; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: bị cáo Võ Hoàng N 02 (hai) năm tù về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 36/2021/HSPT ngày 18/01/2021 về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 36/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về