Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN DƯƠNG KINH - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 36/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 112/2020/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 720/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 750/2020/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Vũ Minh Ng; nơi cư trú: Khu T, phường A, quận D, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Chị Lê Thị L; nơi cư trú: Khu T, phường A, quận D, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình chuẩn bị xét xử, nguyên đơn là anh Vũ Minh Ng trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Lê Thị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào năm 1998, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện K (nay là phường A, quận D, thành phố Hải Phòng). Quá trình chung sống, vợ chồng sống hòa thuận đến năm 2003 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không còn tin tưởng nhau trong quan hệ tình cảm. Mâu thuẫn kéo dài đến thời gian gần đây thì căng thẳng, hai vợ chồng hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Hiện nay, anh và chị L đã sống ly thân. Nay, anh thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị L Về con chung: Anh và chị L có 02 con chung là cháu Vũ Minh H, sinh ngày 17-03-2000 (đã trưởng thành) và cháu Vũ Minh Tuấn, sinh ngày 23-7-2009. Khi ly hôn, anh đề nghị giao cháu Vũ Minh T cho chị L nuôi. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Hai vợ chồng tự thỏa thuận với nhau.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án cũng như tống đạt hợp L các văn bản tố tụng cho chị Lê Thị L nhưng chị L không cung cấp lời khai, không đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn với anh Ng.

Tòa án đã tiến hành xác minh về mâu thuẫn vợ chồng tại địa phương nơi anh Ng và chị L sinh sống, xác minh qua lời khai của mẹ đẻ anh Ng.

Trước khi mở phiên tòa, anh Ng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên quan điểm như trong quá trình giải quyết vụ án; tại phiên toà, chị L vắng mặt lần thứ hai không có lý do chính đáng.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án và ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Cho anh Ng được ly hôn chị L. Về con chung: Chấp nhận đề nghị anh Ng, giao cho chị L trực tiếp nuôi con chung; vấn đề cấp dưỡng nuôi con, anh Ng và chị L không yêu cầu nên không đề nghị xem xét. Về tài sản chung vợ chồng, không yêu cầu nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Anh Vũ Minh Ng có đơn đề nghị Tòa án nhân dân quận Dương Kinh giải quyết việc ly hôn với chị Lê Thị L cư trú tại phường A, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử, anh Ng và chị L đã được tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa hợp L. Anh Ng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị L vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do chính đáng. Căn cứ các điều 227, điều 228 và điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Ng và chị L.

- Về quan hệ hôn nhân:

[3] Anh Vũ Minh Ng và chị Lê Thị L xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định Luật Hôn nhân và Gia đình. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn, cuộc sống chung của vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến những năm gần đây thì phát sinh mâu thuẫn. Quá trình xác minh thu thập chứng cứ tại nơi anh Ng, chị L cư trú và qua lời khai của đại diện gia đình anh Ng đều xác định: Anh Ng và chị L xảy ra mâu thuẫn đã lâu, gia đình hai bên đã hòa giải, khuyên bảo nhiều lần nhưng không thành, mâu thuẫn giữa anh Ng và chị L ngày càng trầm trọng, không hòa giải được. Hiện tại, anh Ng và chị L đã sống ly thân, không còn quan tâm tới nhau. Nay, anh Ng làm đơn xin ly hôn, chị L không cung cấp lời khai về việc ly hôn, cũng không có giải pháp gì để vợ chồng hòa giải và đoàn tụ. Tòa án đã thông báo hòa giải cho chị L nhưng chị L đều vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được. Hội đồng xét xử xét thấy, theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình: "1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. 2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác". Căn cứ vào quy định của pháp luật và thực tế, có thể thấy hai bên đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu của anh Ng xin ly hôn chị L là phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên cần chấp nhận.

- Về con chung:

[4] Anh Vũ Minh Ng và chị Lê Thị L có 02 con chung là Vũ Minh H, sinh ngày 17-03-2000 (đã trưởng thành) và Vũ Minh Tuấn, sinh ngày 23-7-2009. Cháu Hiếu đã trưởng thành nên không phải xem xét giải quyết. Về đề nghị của anh Ng giao con chung là Vũ Minh Tcho chị L tiếp tục nuôi, Hội đồng xét xử xét thấy, qua xác minh tại địa phương, tại gia đình anh Ng và qua lời trình bày của cháu Vũ Minh Tcho thấy: Cháu Vũ Minh Tđang ăn ở sinh hoạt ổn định tại gia đình cùng chị L, các điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc cháu đều đảm bảo, cháu Tuấn có nguyện vọng tiếp tục ở với chị L. Yêu cầu của anh Ng về việc giao con chung cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp và nguyện vọng của con, phù hợp quy định tại các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình. Vì vậy, cần giao con chung Vũ Minh Tcho chị L tiếp tục nuôi dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, anh Ng và chị L không yêu cầu nên không phải xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung:

[5] Anh Ng và chị L không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về án phí ly hôn sơ thẩm:

[6] Anh Vũ Minh Ng là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[7] Anh Ng và chị L đều vắng mặt được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51, các điều 56, điều 81, điều 82, điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; các điều 28, điều 35, điều 39, điều 147, điều 207, điều 227, điều 228, điều 238 và điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và L phí Toà án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Vũ Minh Ng được ly hôn chị Lê Thị L.

2. Về con chung: Giao cho chị Lê Thị L trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Minh T, sinh ngày 23-7-2009 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; vấn đề cấp dưỡng nuôi con, không phải xem xét giải quyết.

Không ai được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau ly hôn.

3. Về án phí: Anh Vũ Minh Ng phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí Tòa án số AA/2016/0013288 ngày 23 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng. Anh Ng đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Vũ Minh Ng và chị Lê Thị L vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp L.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:36/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Dương Kinh - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về