Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 36/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 28 tháng 08 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 86/2020/TLST - HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 21 tháng 07 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 28/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 07 tháng 08 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị S- sinh năm 1994; vắng mặt.

Nơi ĐKHKTT: Xóm T, xã V, huyện K, tỉnh Ninh Bình.

Hiện tạm trú tại: Xóm M, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H - sinh năm 1992; vắng mặt

Nơi ĐKHKTT và trú tại: Xóm T, xã V, huyện K, tỉnh Ninh Bình.

Chị S có đơn xin xét xử vắng mặt, anh H váng mặt lần 2 không rõ lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và các văn bản khác có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn là chị Phạm Thị S trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn H đăng kí kết hôn với nhau vào ngày 12/10/2015 tại Ủy ban Nhân dân xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Sau khi kết hôn, chị và anh H về chung sống cùng bố mẹ anh H tại xã V được khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh H không tu chí làm ăn và thường xuyên rượu chè. Khi chị góp ý thì anh H kiếm cớ chửi bới đánh đập và xúc phạm chị, bản thân chị còn đang phải nuôi con nhỏ. Mâu thuẫn giữa chị và anh H dù được bố mẹ hai bên khuyên giải nhiều nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn ngày càng nặng nề hơn. Do không chịu được cuộc sống chung nên từ đầu năm 2018 đến nay chị đã bế con về nhà bố mẹ đẻ ở xã K để sống. Đồng thời anh chị sống ly thân nhau, mỗi người một nơi từ đó đến nay và không còn quan tâm gì đến cuộc sống của nhau nữa. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn. Vì vậy chị xin được làm đơn ly hôn với anh Hành để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị và anh H có một con chung cháu Nguyễn Thị Ngọc A, sinh ngày 15/7/2016. Hiện cháu đang do chị trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Nay ly hôn chị đề nghị được tiếp tục nuôi cháu A và không yêu cầu anh H cấp dưỡng đối với cháu A.

Về tài sản chung : Chị và anh H tự thỏa thuận phân chia tài sản chung. Nay ly hôn chị không yêu cầu tòa án giải quyết.

Bị đơn trong vụ án là anh Nguyễn Văn H hiện đang cư trú tại nhà mẹ đẻ của anh H là bà Nguyễn Thị C ở xóm T, xã V, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Tòa án nhân dân huyện K đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án cho anh Nguyễn Văn H và giao các tài liệu chứng cứ theo đề nghị của nguyên đơn, tống đạt các văn bản tố tụng, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho anh H thông qua mẹ đẻ anh H là bà Nguyễn Thị C. Anh H có biết việc chị S khởi kiện xin ly hôn với anh, nhưng anh H bỏ mặc không có mặt làm việc tại Tòa án và cũng không có văn bản ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

1. Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đứng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành và thực hiện đứng các quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự . Bị đơn không chấp hành và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự

2. Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81,82,83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 144 khoản 4 Điều 147 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn .

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị S ly hôn anh Nguyễn Văn H

- Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị S tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Ngọc A sinh ngày 15 tháng 7 năm 2016 kể từ khi vợ chồng ly hôn cho đến khi con chung thành niên và tự lập được cuộc sống. Anh Nguyễn Văn H không phải cấp dưỡng đối với cháu A. Anh H có quyền đi lại thăm nom con chung.

- An phí: Chị Phạm Thị S nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Phạm Thị S có đơn khởi kiện về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn với anh Nguyễn Văn H có nơi cư trú tại: Xóm T, xã V, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Tòa án nhân dân huyện K thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1, Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa vắng mặt bị đơn là anh Nguyễn Văn H, anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt không rõ lý do. Chị S có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy để đảm bảo quyền lợi của các đương sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị S và anh Nguyễn Văn H có đăng ký kết hôn ngày 12/10/2015 tại UBND xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị S và anh Nguyễn Văn H là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn anh chị về sinh sống cùng bố mẹ đẻ anh H tại xóm T, xã V, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh H rượu chè và đánh đập xúc phạm chị S. Cuộc sống chung của vợ chồng không có hạnh phúc nên đầu năm 2018 đến nay anh chị sống ly thân nhau và không quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa. Tài liệu do chị S cung cấp thể hiện vào tháng 6 năm 2020 anh H xuống nhà chị S gây sự nên xảy ra việc đánh lộn nhau giữa anh H và bố chị S. Hậu quả là làm mất trật tự an ninh thôn xóm và công an xã K phải xuống giải quyết.

Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án anh H không có văn bản ý kiến, không có bản tự khai và không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Tại phiên tòa anh Hành vẫn vắng mặt không rõ lý do. Điều này thể hiện anh H không thiện trí trong việc giải quyết mâu thuẫn vợ chồng, không có biện pháp nào hàn gắn tình cảm, hôn nhân của anh chị đã rơi vào tình trạng trầm trọng. Mặt khác qua làm việc với mẹ anh H là bà Nguyễn Thị C thì bà C cũng xác định: Anh H hiện đang ở cùng với bà tại xóm T, xã V, anh H cũng biết việc chị S có đơn khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn với với anh H, nhưng do đặc thù công việc của anh H sáng đi tối về công việc rất bận nên đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết vắng mặt anh H.

Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã V thể hiện: Chị S và anh H có quan hệ hôn nhân hợp pháp, sau khi kết hôn anh chị về chung sống tại xã V được khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H hay rượu chè nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Cuộc sống vợ chồng mâu thuẫn nên khoảng từ năm 2018 chị S đã bỏ chồng và gia đình nhà chồng về xóm M, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình để ở cùng bố mẹ đẻ của chị Sáng và không quay về xã Văn Hải sinh sống nữa. Chỉ có anh H sinh sống và làm ăn ở xã V. Nay chị S xin ly hôn anh H đề nghị Tòa án căn cứ vào các tài liệu chứng cứ cũng như yêu cầu, nguyện vọng của các bên để giải quyết vụ án.

Từ những tài liệu, chứng cứ nêu trên chứng tỏ chị S và anh H đã có thời gian sống ly thân nhau đã lâu, bản thân cả hai anh chị cũng không có biện pháp nào để khắc phục mâu thuẫn và hàn gắn tình cảm vợ chồng. Dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.

[3] Về con chung: Chị S và anh H có một con chung cháu Nguyễn Thị Ngọc A sinh ngày 15 tháng 07 năm 2016. Hiện cháu A do chị S trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, nay vợ chồng ly hôn chị S đề nghị được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cháu A và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng đối với cháu A. Xét điều kiện nuôi dưỡng con sau khi ly hôn giữa chị S và anh H là như nhau, nhưng căn cứ vào tình hình thực tế kể từ khi vợ chồng sống ly thân cháu A ở với chị S và chị S cũng đã chăm sóc và đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho cháu, về phía anh H không có ý kiến gì về việc giải quyết vụ án cũng như không có ý kiến gì về vấn đề giao con sau khi ly hôn. Để không ảnh hưởng đến việc học tập cũng như môi trường sinh hoạt của của cháu A, Hội đồng xét xử nhận thấy cần giao cháu A cho chị S tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế điều kiện nuôi dưỡng con của chị S cũng như phù hợp với các quy định của pháp luật. Anh H có quyền đi lại thăm nom con chung.

Về vấn đề cấp dưỡng: Do chị Sáng không yêu cầu anh H cấp dưỡng đối với cháu A. Chị S cũng xác định mình có đủ điều kiện về vật chất để đảm bảo cuộc sống cho cháu A nên anh H không phải cấp dưỡng đối với cháu A, do vậy vấn đề cấp dưỡng không đặt ra xem xét.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 144. Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chị Phạm Thị S phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 144; khoản 4 Điều 147; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp , quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị S và anh Nguyễn Văn H được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Ngọc A sinh ngày 15 tháng 07 năm 2016 cho chị Phạm Thị S tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Kể từ khi vợ chồng ly hôn cho đến khi cháu trưởng thành tự lập được cuộc sống. Anh Nguyễn Văn H không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị S. Anh H có quyền đi lại thăm nom con chung.

Không bên nào được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc con chung.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị S phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0002349 ngày 02 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện K, tỉnh Ninh Bình.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được THADS, người phải THADS có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật THADS; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật THADS.

Án xử công khai sơ thẩm nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:36/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về