Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 27/10/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 36/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/10/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 27/10/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 200/2020/TLST-HNGĐ ngày 17/7/2020 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2020/QĐXX-ST ngày 23/9/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2020/QĐHPT-TA ngày 15/9/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đào Thị G, sinh năm 1993 ĐKHKTT: Thôn K, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương.

Hiện ở: Thôn T, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng.

Bị đơn: Anh Đồng Văn T, sinh năm 1991 Địa chỉ cư trú: Thôn K, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương. ( Chị G và anh T đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và các tài liệu có trong hồ sơ và tại phiên tòa, chị G trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đồng Văn T được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, đăng ký tại UBND xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương vào ngày 06/11/2012. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai bên không hợp nhau về tính tình, bất đồng quan điểm sống, hai bên thường xuyên xảy ra cãi cọ, lời qua tiếng lại. Mặt khác, anh T còn là người mải chơi bời, cờ bạc không chịu làm ăn xây dựng kinh tế gia đình, không quan tâm đến gia đình vợ con. Do mâu thuẫn xảy ra trầm trọng nên từ năm 2014 cho đến nay hai bên đã ly thân 03 lần, hai lần đầu được gia đình động viên quay về đoàn tụ để nuôi con nên chị quay về, khi về được vài tháng vợ chồng lại phát sinh mâu thuẫn. Vào tháng 5/2016, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn trầm trọng nên chị đã quyết định bỏ hẳn về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, còn anh T vẫn sống cùng bố mẹ đẻ tại xã Tam Kỳ, hai bên đã ly thân kể từ đó cho đến nay cắt đứt hoàn toàn quan hệ về tình cảm cũng như kinh tế. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về phía anh T. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã triệu tập anh T đến Tòa án là việc, nhưng anh không đến.

Tại biên bản lấy lời khai của bố anh T là ông Đồng Xuân Kỳ cũng xác định vợ chồng chị G, anh T kết hôn năm 2012. Sau khi kết hôn vợ chồng ở cùng gia đình ông.Trong quá trình ở cùng nhau chị G và anh T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống. Hơn thế anh T là người mải chơi bời, cờ bạc không quan tâm đến gia đình vợ con, làm kinh tế gia đình sa sút. Đến năm 2016, do mâu thuẫn trầm trọng nên chị G đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ tại Hải Phòng sinh sống.

Các văn bản tố tụng như Thông báo thụ lý vụ án; thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vào hòa giải; giấy triệu tập; Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và Quyết định hoãn phiên tòa đã được Tòa án giao cho bố đẻ của anh T là ông Đồng Xuân K để ông giao lại cho anh, anh đều đã biết và đã được nhận nhưng anh không đến và không có quan điểm về việc chị G xin ly hôn anh.

- Về quan hệ con chung: Chị G xác định vợ chồng có 01 con chung là Đồng Thị Ngọc Á, sinh ngày 19/01/2013. Nay quan điểm của chị G xin được nuôi con và tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Hiện tại chị đang làm công nhân tại Công ty L với mức thu nhập 9.000.000đồng/tháng.

Anh T vắng mặt trong các buổi làm việc nên không có quan điểm về con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị G xác định không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Anh T vắng mặt trong các buổi làm việc tại Tòa án nên không có quan điểm.

Tại phiên tòa: Chị G vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin được ly hôn anh T, xin được nuôi con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành , tỉnh Hải Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Từ khi thụ lý vụ án, Thẩm phán đã thụ lý đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự, thời hạn giải quyết, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà Hội đồng xét xử đã tuân theo Pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không chấp hành.

Hướng giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Xử cho chị Đào Thị G được ly hôn anh Đồng Văn T. Về con chung: Áp dụng Điều 81; Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Giao cháu Đồng Thị Ngọc A, sinh ngày 19/01/2013 cho chị G được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị G không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Chị G không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí: Chị G phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng : Anh Đồng Văn T được Tòa án triệu tập hai lần hợp lệ đến tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đào Thị G và anh Đồng Văn T kết hôn với nhau dựa trên cơ sở tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tam Kỳ, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin được ly hôn của chị G thì thấy rằng: Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng giữa chị G và anh T là do hai bên hai bên không hợp nhau về tính tình, thường xuyên bất đồng về quan điểm sống, anh T là người mải chơi bời, không quan tâm đến gia đình vợ con nên hai bên thường xuyên xảy ra cãi cọ, lời qua tiếng lại. Anh T vắng mặt trong các buổi làm việc không có quan điểm cụ thể về việc chị G xin ly hôn anh, tuy nhiên việc anh T vắng mặt là do anh cố tình không đến, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Tòa án đã tiến hành giao các văn bản tố tụng cho bố anh T là ông Đồng Xuân Kỳ, ông Kỳ đã thông báo và giao lại cho anh, anh biết việc chị G ly hôn nhưng anh vẫn cố tình không đến Tòa án làm việc. Căn cứ vào lời khai của mẹ anh T và biên bản xác minh tại UBND xã đã thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị G và anh T đã xảy ra trong thời gian dài (từ năm 2016 đến nay), vợ chồng sống xa cách nhau nên tình cảm dần phai nhạt. Hội đồng xét xử xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị G và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình để xử cho chị Đào Thị G được ly hôn anh Đồng Văn T là phù hợp.

[3] Về quan hệ con chung: Xét yêu cầu xin được nuôi con chung của chị G thì thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của cháu Đồng Thị Ngọc Á thì cháu có nguyện vọng xin được ở cùng mẹ. Chị G xin nuôi con và có thu nhập, nơi ở ổn định, anh T cố tình không đến Tòa án và cũng không có quan điểm về việc nuôi con. Mặt khác, cháu Á vẫn do chị G trực tiếp nuôi và chăm sóc từ năm 2016 đến nay. Để đảm bảo cho cuộc sống ổn định của con chung nên cần giao cháu Đồng Thị Ngọc A cho chị G được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Sau này anh T có yêu cầu sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

Về tiền cấp dưỡng nuôi con: Chị G tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị G không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung. Vì vậy, không đặt ra việc giải quyết. Anh T vắng mặt, sau này nếu có yêu cầu sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Chị G có đơn yêu cầu ly hôn nên phải nộp tiền án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228; khoản Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử chấp nhận yêu cầu của chị Đào Thị G, cho ly hôn giữa chị Đào Thị G và anh Đồng Văn T.

2. Về quan hệ con chung: Giao cháu Đồng Thị Ngọc A, sinh ngày 19/01/2013 cho chị G tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi cháu A trưởng thành đủ 18 tuổi.

Chị G tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quy ền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn c hế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị G không yêu cầu nên không đặt ra việc giải quyết.

4. Về án phí: Chị Đào Thị G phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành theo biên lai số AA/2018/0001523 ngày 17 tháng 7 năm 2020.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt chị G, anh T. Báo cho chị G, anh T biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 27/10/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:36/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:27/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về