Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về ly hôn giữa chị L và anh E

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 36/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/08/2020 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ L VÀ ANH E

Ngày 14-8-2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 174/2020/TLST - HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2020 về “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2020/QĐST - HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị L, sinh năm 1975 (có mặt). ĐKHKTT: thôn Ng, xã K, huyện H, tỉnh Thái Bình.

Tạm trú: thôn Ph, xã Th, huyện H, tỉnh Thái Bình.

Bị đơn: Anh Lương Văn É, sinh năm 1973. Địa chỉ: thôn Ng, xã K, huyện H, tỉnh Thái Bình.

(anh É có đơn xin xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Vũ Thị L trình bày: Chị và anh É kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND xã K vào ngày 22-02-1999. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến đầu năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp, anh É thường xuyên đánh đập, chửi bới chị, nghi ngờ chị ngoại tình không tin tưởng chị. Sau đó khoảng tháng 10-2013 chị làm đơn xin ly hôn anh É, được Tòa án nhân dân huyện H giải quyết cho chị được ly hôn anh É. Anh É kháng cáo Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử bác yêu cầu của chị. Nhưng từ đó đến nay vợ chồng chị không quay lại đoàn tụ với nhau, mà sống ly thân nhau từ cuối năm 2013 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Toà án nhân dân (viết tắt TAND) huyện H giải quyết cho chị được ly hôn anh É. Về nuôi con chung: Chị và anh É có 02 con chung là Lương Thành V, sinh ngày 09/5/2000 và Lương Hà L, sinh ngày 22/11/2008. Hiện nay cháu V đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về trách nhiệm cấp dưỡng. Khi ly hôn chị đồng ý để cháu L ở với anh É. Về tài sản chung: Chị không đề nghị Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tại bản tự khai ngày 07-7-2020 bị đơn anh Lương Văn É trình bày: Về điều kiện kết hôn như chị L trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Cuối năm 2013 chị L xin ly hôn anh, ngày 09-01-2014 Tòa án nhân dân huyện H cho chị L ly hôn anh, anh đã kháng cáo, ngày 24-4-2014 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử bác đơn của chị L. Từ đó đến nay vợ chồng anh không quay lại đoàn tụ với nhau, mà sống ly thân nhau từ cuối năm 2013 đến nay. Nay chị L khởi kiện ly hôn anh, quan điểm của anh không muốn vợ chồng ly hôn, vì sợ ảnh hưởng học tập của các con, nếu chị L cố tình ly hôn anh, anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về nuôi con chung: Anh và chị L có 02 con chung là Lương Thành V, sinh ngày 09/5/2000 và Lương Hà L, sinh ngày 22/11/2008. Hiện nay cháu V đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về trách nhiệm cấp dưỡng. Khi ly hôn anh xin nuôi cháu L, anh xin nuôi con hoàn toàn không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa, trước khi Hội đồng xét xử nghị án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định, người tham gia tố tụng đã chấp hành cơ bản đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xử cho ly hôn giữa chị L và anh É;

Về nuôi con chung: Cháu Lương Thành V, sinh ngày 09/5/2000 đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết, giao cháu L cho anh É nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của anh É nuôi con hoàn toàn không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị L, anh É không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có. Chị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện H nhận định:

[2] Về thủ tục tố tụng: Chị L khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh É, căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện H. Anh Lương Văn É có đơn xin xử vắng mặt, vì vậy Tòa án mở phiên tòa xét xử vắng mặt anh É theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về hôn nhân: Chị Vũ Thị L và anh Lương Văn É kết hôn với nhau do đôi bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND xã K, huyện H, tỉnh Thái Bình vào ngày 22/02/1999, đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2013 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do vợ chồng tính tình không hợp. Mặc dù anh É trình bày anh không muốn vợ chồng ly hôn, nhưng xét thấy giữa chị L và anh É mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2013 đến nay, mục đích của hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L là phù hợp với quy định tại khoản1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về nuôi con chung: Chị L và anh É có 02 con chung là Lương Thành V sinh ngày 09/5/2000 và Lương Hà L sinh ngày 22/11/2008. Hiện nay cháu V đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết về trách nhiệm nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật. Anh É xin nuôi cháu L, chị L cũng nhất trí, hơn nữa nguyện vọng của cháu L xin được ở với bố, vì vậy cần giao cháu L cho anh É trực tiếp nuôi dưỡng, anh É không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82 và 83 - Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về chia tài sản: Chị L và anh É đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị L phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên có căn cứ chấp nhận;

Từ các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị L và anh Lương Văn É.

2. Về nuôi con chung: Cháu Lương Thành V, sinh ngày 09-5-2000, hiện đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết về trách nhiệm nuôi dưỡng. Giao cháu Lương Hà L, sinh ngày 22-11-2008 cho anh É trực tiếp nuôi dưỡng, chị Lkhông phải cấp dưỡng nuôi con. Chị L có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Chị L và anh É không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị L đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0006054 ngày 03-7-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Thái Bình, chị L đã nộp đủ tiền án phí.

Chị Vũ Thị L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lương Văn É vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết tại UBND xã K.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về ly hôn giữa chị L và anh E

Số hiệu:36/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về