Bản án 36/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 36/2019/HS-ST NGÀY 22/05/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 22 tháng 5 năm 2019 tại Phòng xử án - Toà án nhân dân huyện Ea H’leo xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2019/TLST-HS, ngày 04 tháng 5 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2019/QĐXXST-HS, ngày 10 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Hà Xuân Q, sinh năm 1990 tại tỉnh Thanh Hóa, nơi cư trú: Tổ 12, khu phố 4C, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; con ông: Hà Xuân B (đã chết) và con bà: Hà Thị O, sinh năm 1961; gia đình bị cáo có 03 người con, bị cáo là con thứ 3; tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/01/2019 đến ngày 17/01/2019, đến ngày 25/01/2019 bị Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Ea H’leo cho gia đình bảo lĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Công ty TNHH Một thành viên Đ.

Địa chỉ: Số 81/T, tổ 13, khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Thân Đức N, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Số 81/T, tổ 13, khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt.

Người làm chứng:

Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1968; địa chỉ: Tổ dân phố 12, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

Ông Vũ Xuân B, sinh năm 1988; địa chỉ: Khu phố 6, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, có mặt.

Ông Nguyễn Trương B, sinh năm 1994; địa chỉ: Khu phố 6, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 07/01/2019, Hà Xuân Q đến công ty TNHH Đ tại khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thuê chiếc xe ô tô hiệu Kia K3, loại 5 chỗ ngồi biển kiểm soát 60A-263.66 chở Nguyễn Trương B và Vũ Xuân B từ thành phố B, tỉnh Đ đến huyện Đ, tỉnh Gia Lai để dự đám cưới bạn. Đến trưa ngày 08/01/2019 trong lúc dự đám cưới bạn tại Đức Cơ thì Q quen biết một người tên T(không rõ nhân thân lai lịch) và T hỏi Q “Có sử dụng pháo không T cho về đốt” thì Q nói “có”. Sau khi dự đám cưới xong thì T dẫn Q đến khu vực cửa khẩu L thuộc huyện Đ để lấy pháo. Tại đây, T đưa cho Q 02 thùng giấy cát tông bên trong có 24 hộp pháo. Q bỏ toàn bộ số pháo trên vào cốp sau của xe ô tô biển kiểm soát 60A-263.66 rồi điều khiển xe quay lại chở B, B đi về Đồng Nai theo tuyến đường Hồ Chí Minh. Đến khoảng 15 giờ 30 phút ngày 08/01/2019, khi Q đang điều khiển xe ô tô chở số pháo trên đến địa phận thôn 4, xã Ea Khăl thì Tổ tuần tra giao thông Công an tỉnh Đắk Lăk kiểm tra và phát hiện trên xe ô tô có chở pháo nên đã báo cho Công an huyện Ea H’leo đến lập biên bản bắt giữ người phạm tội qua tang đối với Hà Xuân Q với hành vi vận chuyển hàng cấm.

Tại bản kết luận giám định số 135/KLGĐ, ngày 15/01/2019 của Phòng kỹ thuật tình sự Công an tỉnh Gia Lai kết luận: 24 hộp gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo, khi đốt bay lên cao, gây tiếng nổ, phát ra ánh sáng). Tổng khối lượng 43,1 kg.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá tài sản.

Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã thu giữ 24 hộp pháo có tổng khối lượng 43,1 kg, 01 xe ô tô hiệu Kia K3, biển kiểm soát 60A-263.66. Sau khi xác định được chủ sở hữu hợp pháp, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 60A – 263.66 cho công ty TNHH Đ do ông Thân Đức N làm giám đốc.

Tại Bản cáo trạng số 41/CT-VKS, ngày 04/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’leo truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo để xét xử đối với bị cáo Hà Xuân Q về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm g khoản 2 Điều 191 của Bộ luật hình sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Hà Xuân Q từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách bằng hai lần mức án.

Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 22 hộp pháo có khối lượng còn lại sau giám định là 36,9 kg, cần chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 60A – 263.66 cho công ty TNHH một thành viên Đ do ông Thân Đức N làm giám đốc.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 60A-263.66 công ty TNHH một thành viên Đ không có yêu cầu gì đối với bị cáo Hà Xuân Q nên cần chấp nhận.

Quá trình điều tra bị cáo Hà Xuân Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo Hà Xuân Q, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát, không có tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo Hà Xuân Q xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ea H’leo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’leo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện cho bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Vào ngày 08/01/2019, Hà Xuân Q có hành vi điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 60A – 263.66 chở 02 thùng giấy cát tông bên trong có 24 hộp pháo đi từ huyện Đ về tỉnh Đồng Nai để sử dụng. Đến khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 08/01/2019, khi Q đang điều khiển xe ô tô chở số pháo trên đến địa phận thôn 4, xã Ea Khăl thì Tổ tuần tra giao thông Công an tỉnh Đắk Lăk kiểm tra và phát hiện trên xe ô tô có chở pháo nên đã báo cho Công an huyện Ea H’leo đến lập biên bản bắt giữ người phạm tội qua tang đối với Hà Xuân Q với hành vi vận chuyển hàng cấm.

Xét thấy, hành vi điều khiển xe ô tô vận chuyển 24 hộp pháo của Hà Xuân Q là vi phạm quy định tại khoản 1, điểm g khoản 2 Điều 191 BLHS. Tại khoản 1, điểm g khoản 2 Điều 191 BLHS, quy định:

“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

g) Pháo nổ từ 40 kilôgam đến dưới 120 kilôgam;”

Như vậy, hành vi của bị cáo Hà Xuân Q đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” quy định tại khoản 1, điểm g khoản 2 Điều 191 BLHS. Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát ở phần tranh luận là có căn cứ và đúng pháp luật, nên cần chấp nhận.

Bị cáo Hà Xuân Q có đầy đủ nhận thức để biết được việc vận chuyển pháo nổ là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, do ý thức coi thường pháp luât, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi vận chuyển 24 hộp pháo. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là xâm phạm đến trật tự quản lý một số loại hàng cấm của nhà nước, xâm phạm đến trật tự xã hội, là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, để kịp thời đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử nhận thấy cần xử phạt nghiêm đối với bị cáo thì mới có tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật. Ngoài ra, còn để răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, bác ruột của bị cáo là liệt sỹ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật, xét thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà để bị cáo tự rèn luyện dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ tác dụng trừng trị, răn đe đối với bị cáo.

[3] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 22 hộp pháo có khối lượng còn lại sau giám định là 36,9 kg, cần chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 60A – 263.66 cho công ty TNHH một thành viên Đ do ông Thân Đức N làm giám đốc.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 60A – 263.66 công ty TNHH một thành viên Đ không có yêu cầu gì đối với bị cáo Hà Xuân Q nên cần chấp nhận.

Đối với Nguyễn Trương B và Vũ Xuân B không biết việc bị cáo Hà Xuân Q vận chuyển pháo nổ trên xe ô tô nên không có căn cứ xử lý.

Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đ khi cho Q thuê xe không biết bị cáo sử dụng để vận chuyển pháo nổ nên không có căn cứ xử lý.

[5] Về án phí: Cần buộc bị cáo Hà Xuân Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hà Xuân Q phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Hà Xuân Q 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời giam thử thách 04 năm, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trong thời gian thử thách của án treo giao bị cáo Hà Xuân Q cho UBND phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, Điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy 22 hộp pháo có khối lượng còn lại sau giám định là 36,9 kg. Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 60A – 263.66 cho công ty TNHH một thành viên Đ do ông T làm giám đốc.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 60A – 263.66 công ty TNHH một thành viên Đ không có yêu cầu gì đối với bị cáo Hà Xuân Q nên cần chấp nhận.

Về án phí: Buộc bị cáo Hà Xuân Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Hà Xuân Q có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan công ty TNHH một thành viên Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:36/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về