Bản án 36/2019/HNGĐ-ST ngày 19/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NĂM CĂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 36/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 19 tháng 07 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 61/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 03 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 06 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Cẩm L, sinh năm 1988 (xin vắng).

- Bị đơn: Ông Lê Minh C, sinh năm 1990 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Khóm 4, thị trấn N, huyện C, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 14 tháng 3 năm 2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Cẩm L trình bày yêu cầu:

- Về hôn nhân: Bà L và ông C có thời gian tìm hiểu và kết hôn trên tinh thần tự nguyện vào năm 2014, hôn nhân có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Năm Căn, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau.

Lý do xin ly hôn: Quá trình chung sống vợ chồng thường phát sinh mâu thuẫn về tiền bạc và do ông C không chí thú làm ăn, thường xuyên gây nợ, nhiều lần chủ nợ tìm đến nhà đòi nợ, chưởi bới, đe dọa, làm cho bà và con luôn sống trong sợ hãi. Bà L có khuyên nhiều lần nhưng ông C không sửa đổi tính tình mà càng gây nợ nhiều hơn. Tháng 12 năm 2017 bà L và ông C sống ly thân cho đến nay. Hiện tại hôn nhân không còn hạnh phúc nên bà L yêu cầu ly hôn với ông Lê Minh C vì tiếp tục duy trì sẽ làm khổ cho bà và ông C.

- Về con chung: Có một người con tên Lê Ngọc Băng T, sinh ngày 02 tháng 06 năm 2015 (nữ), hiện đang sống cùng bà L. Khi ly hôn bà L yêu cầu nuôi con, cấp dưỡng nuôi con bà L tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và công nợ: Bà L tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn ông Lê Minh C: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, hết thời hạn theo quy định mà ông C không có văn bản trình bày ý kiến của mình về việc bà L yêu cầu ly hôn, nuôi con, về tài sản chung và công nợ; Đồng thời, Tòa án đã tống đạt hợp lệ 02 lần Thông báo về phiên họp, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng ông C vẫn không tham gia.

Tại phiên tòa:

Bà Nguyễn Thị Cẩm L và ông Lê Minh C vắng mặt nên không có ý kiến khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Bà Nguyễn Thị Cẩm L yêu cầu ly hôn với ông Lê Minh C, yêu cầu nuôi con chung, ngoài ra không có yêu cầu gì khác, tranh chấp giữa bà L với ông C là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với bà Nguyễn Thị Cẩm L có đơn xin vắng mặt phiên xét xử đề ngày 17/6/2019 vì vừa xin được việc làm tại Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, yêu cầu này của bà L là chính đáng và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với ông Lê Minh C đã được Tòa án thông báo hợp lệ các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên xét xử sơ thẩm nhưng đều vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 207 và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án không tiến hành hòa giải được và Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Lê Minh C.

[2]. Về nội dung vụ án:

- Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Cẩm L và ông Lê Minh C có thời gian tìm hiểu và kết hôn trên tinh thần tự nguyện, hôn nhân có lập thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân thị trấn Năm Căn, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau, giấy chứng nhận kết hôn số 71/2014 ngày 27 tháng 05 năm 2014. Vì vậy quan hệ hôn nhân của bà Nguyễn Thị Cẩm L và ông Lê Minh C được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Quá trình chung sống giữa bà L và ông C phát sinh mâu thuẫn do mâu thuẫn về tài chính, chi tiêu trong gia đình, ông C không chí thú làm ăn để xây dựng gia đình mà thường xuyên gây ra nợ. Bà L và ông C sống ly thân từ tháng 12 năm 2017 đến nay. Bà L xác định hôn nhân tiếp tục duy trì sẽ làm khổ cho bà và ông C nên bà L yêu cầu được ly hôn với ông Lê Minh C.

Hội đồng xét xử xét thấy từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay, ông C không có thiện chí hàn gắn hôn nhân với bà L, bởi lẽ Tòa án có tổ chức các phiên hòa giải nhưng ông C không đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải hàn gắn hôn nhân, hai đương sự có khoảng thời gian ly thân dài nhưng vẫn không khắc phục được mâu thuẫn, chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông C đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không đạt được hạnh phúc nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân cũng không đem lại hạnh phúc cho đôi bên nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Cẩm L đối với ông Lê Minh C theo quy định tại Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về nuôi con chung: Có một người con tên Lê Ngọc Băng T, sinh ngày 02 tháng 06 năm 2015 (nữ), hiện đang sống cùng bà L. Khi ly hôn bà L yêu cầu nuôi con, yêu cầu này của bà L là chính đáng, bởi lẽ sau khi ly hôn cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi vợ chồng bà L, ông C sống ly thân cho đến nay thì cháu T sống chung với bà L, cuộc sống của cháu T được đảm bảo nên giao con chung là Lê Ngọc Băng T cho bà L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp theo quy tại khoản 2 Điều 81, Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và công nợ: Đương sự tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết, căn cứ vào Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự“Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”, do đương sự không đặt ra yêu cầu nên không xem xét là có cơ sở.

Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không giá ngạch bà Nguyễn Thị Cẩm L phải chịu theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà L được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 147, Điều 220, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Cẩm L và ông Lê Minh C.

2. Về nuôi con chung: Giao một người con tên Lê Ngọc Băng T, sinh ngày 02 tháng 06 năm 2015 (nữ) cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và công nợ: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Cẩm L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng, bà L được khấu trư sô tiên tam ưng án phí 300.000 đông đã n ộp theo biên lai thu tiền sô 0016378 ngày 22 tháng 03 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/HNGĐ-ST ngày 19/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:36/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Năm Căn - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:19/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về