TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA- VŨNG TÀU
BẢN ÁN 36/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN
Ngày 8 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 81/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp yêu cầu ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 30/2019/QĐHPT-HN ngày 19 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lý Thanh T- sinh năm: 1984 (Vắng mặt);
Nơi cư trú: tổ 2, ấp P, xã T, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Bị đơn: Ông Võ Văn L- sinh năm: 1977 (Vắng mặt)
Nơi cư trú: Tổ 8, ấp M, xã L, huyện Đ, tỉnh BR-VT.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 15 tháng 3 năm 2019 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là bà Lý Thanh T trình bày:
Qua thời gian tìm hiểu, vào năm 2005, bà Lý Thanh T và ông Võ Văn L tự nguyện chung sống với nhau, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện L, tỉnh BR-VT (Theo giấy chứng nhận kết hôn 34 ngày 24- 6-2005).
Qúa trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình hai vợ chồng không hợp nhau, bất đồng trong quan điểm sống, ông L không quan tâm chăm lo cho cuộc sống gia đình, vợ chồng chung sống nhưng không có sự chia sẻ đồng cảm với nhau. Vì vậy, đời sống hôn nhân không hạnh phúc và phải ly thân từ 2006 đến nay. Trong thời gian ly thân, hai bên mạnh ai nấy sống, không ai quan tâm đến ai, không gặp nhau để bàn chuyện hàn gắn. Nay, thời gian ly thân đã quá lâu, không thể quay về đoàn tụ đồng thời bà T không còn tình cảm với ông L nữa nên yêu cầu ly hôn.
Về con chung: Trong quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung là Võ Bích L1, sinh ngày 28 tháng 10 năm 2005. Từ khi ly thân đến nay, cháu L1 sống trực tiếp với bà T. Nay, bà T yêu cầu tiếp tục trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu ông L cấp dưỡng.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác định hai vợ chồng không có tài sản chung cũng như nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là ông Võ Văn L trong suốt quá trình Tòa án giải quyết, đã được tống đạt hợp lệ nhiều lần nhưng không đến nên không thể lấy ý kiến.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Võ Văn L đã triệu tập nhiều lần không đến là vi phạm nghĩa vụ nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng pháp luật.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Bị đơn ông Võ Văn L hiện nay có nơi sinh sống, làm việc tại huyện Đất Đỏ nên căn cứ theo khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Võ Văn L đã được Tòa án triệu tập lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà T, ông L.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về yêu cầu ly hôn:
Xét quan hệ hôn nhân giữa bà Lý Thanh T và ông Võ Văn L trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện L, tỉnh BR-VT. Do vậy, theo quy định tại các Điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì đủ cơ sở xác định là hôn nhân hợp pháp.
Quá trình chung sống, bà T xác định vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, bất đồng trong quan điểm sống, không có sự chia sẻ đồng cảm với nhau.Vì vậy, đời sống hôn nhân không hạnh phúc, phải ly thân nhau từ năm 2006 đến nay. Nay, bà T có yêu cầu ly hôn với ông L. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông L đến tham gia phiên hòa giải nhằm tạo điều kiện cho các bên quay về đoàn tụ nhưng ông L không đến, bỏ mặc bà T muốn làm gì thì làm điều đó cho thấy ông L không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân giữa hai người.
Qúa trình Tòa án giải quyết đã xác minh chính quyền địa phương nơi vợ chồng trước đây chung sống thì được biết vợ chồng không sống chung với nhau là có thật, còn nguyên nhân như thế nào thì địa phương không rõ. Xét, vợ chồng bà T đã không còn chung sống với nhau cách đây 13 năm, mỗi người đều có cuộc sống riêng, không ai còn quan tâm đến ai, vợ chồng không có thiện chí hàn gắn, đoàn tụ làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu của bà T là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[2.2] Về con chung: Bà T xác định vợ chồng có con chung là cháu tên Võ Bích L1, sinh ngày 28 tháng 10 năm 2005. Nay, bà T có yêu cầu trực tiếp nuôi cháu L1; qúa trình giải quyết, ông L không có ý kiến hoặc yêu cầu gì. Xét, từ khi ly thân đến nay, cháu L1 đã sống ổn định với mẹ, cháu được quan tâm, chăm sóc đảm bảo về sức khỏe, vật chất và tinh thần đồng thời theo nguyện vọng của cháu là mong muốn được sống trực tiếp với mẹ. Do đó, giao cháu L1 cho bà T được quyền tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.
Về cấp dưỡng: Bà T không có yêu cầu nên không xem xét.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác định không có, không yêu cầu giải quyết; ông L cũng không có ý kiến hoặc yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.
[3] Về án phí: Bà Lý Thanh T phải chịu 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ông Võ Văn L không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường Vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho bà Lý Thanh T ly hôn với ông Võ Văn L.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao con chung là cháu tên Võ Bích L1, sinh ngày 28 tháng 10 năm 2005 cho bà Lý Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng.
2.2. Về cấp dưỡng: Không yêu cầu, không xem xét giải quyết.
Sau khi ly hôn, ông L và bà T đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân gia đình 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.
4. Về án phí:
- Bà Lý Thanh T phải chịu 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng theo biên lai thu tiền số TU/2017/0010678 ngày 18 tháng 3 năm 2019 của Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ. Bà T đã nộp đủ tiền án phí.
- Ông Võ Văn L không phải chịu án phí.
5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án 36/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về tranh chấp yêu cầu ly hôn
Số hiệu: | 36/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về