Bản án 36/2019/DS-ST ngày 06/05/2019 về tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 36/2019/DS-ST NGÀY 06/05/2019 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE

Ngày 06 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 34/2019/TLST-DS ngày 29 tháng 01 năm 2019 về: “Tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 152/2019/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1964. Trú tại: Ấp 10B, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc Q, sinh năm 1995. Trú tại: Khóm, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cà Mau

(Nguyên đơn - Bị đơn có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị P trình bày:

Vào ngày 06/12/2017, bà đang đi bộ trên tuyến lộ giao thông Rạch Ráng – Tắc Thủ thuộc khóm 8, thị trấn Trần Văn Thời, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau thì bị anh Nguyễn Quốc Q điều khiển xe mô tô biển số 69N1-305.24 tông thẳng vào người và bà bị té xuống lộ bất tỉnh. Hậu quả: Bà bị gãy khung chậu, gãy ổ cối trái. Phải đi điều trị tại Bệnh viện 115 thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 06/12/2017 đến ngày 15/12/2017. Nay, bà khởi kiện yêu cầu anh Q bồi thường các khoản thiệt hại sau: Tiền thuê xe từ Huyện Trần Văn Thời đến Bệnh viện tỉnh Cà Mau số tiền 300.000 đồng; từ Bệnh viện tỉnh Cà Mau đến Bệnh viện 115 Thành phố Hồ Chí Minh số tiền 2.000.000 đồng, từ Bệnh viện 115 Thành phố Hồ Chí Minh về Huyện Trần Văn Thời 2.000.000 đồng. Tiền xe taxi tái khám 02 đợt số tiền 2.000.000 đồng (từ Quận Tân Phú đến Bệnh viện 115 Thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại); Tiền thuốc, viện phí số tiền: 4.000.000 đồng; Tiền thuê người chăm sóc bệnh 01 người/3.000.000đồng/02 tháng = 6.000.000 đồng; Chi phí ăn uống cho 02 người/100.000 đồng/02 tháng = 6.000.000 đồng; Tiền tổn thất tinh thần với số tiền 3.000.000 đồng; Tiền mất thu nhập 01 người/02 tháng/3.000.000 đồng = 6.000.000 đồng. Tổng cộng: 31.300.000 đồng - 8.000.000 đồng (Bị đơn đã đưa cho nguyên đơn), còn lại: 23.300.000 đồng. Đối với tiền thuốc bắc đăng bó vết thương số tiền: 2.400.000 đồng, không yêu cầu, xin rút lại.

- Bị đơn anh Nguyễn Quốc Q trình bày:

Anh Q thừa nhận vào ngày 06/12/2017, anh có điều khiển xe mô tô biển số 69N1-305.24 do anh đứng tên quyền sở hữu tông vào người bà P, dẫn đến bà P bị gãy khung chậu, gãy ổ cối trái. Sau khi gây tai nạn thì anh có đưa cho bà P số tiền 8.000.000 đồng. Sau khi đối trừ khoản tiền anh đã đưa cho bà P, các khoản thiệt hại còn lại yêu cầu xem xét đúng quy định của pháp luật.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Cần chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn bồi thường cho bà P số tiền: 18.094.000 đồng. Đình chỉ một phần khởi kiện của bà P đối với khoản tiền 2.400.000 đồng (Tiền thuốc bắc đăng bó vết thương).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà P khởi kiện yêu cầu anh Q bồi thường thiệt hại, nên quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là: “Tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng” theo khoản 6 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nơi xảy ra tai nạn thuộc khóm 8, thị trấn Trần Văn Thời, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Nên, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo điểm a khoản 1 Điều 35; điểm d khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bà P chỉ yêu cầu anh Q bồi thường: 23.300.000 đồng, đối với khoản tiền thuốc bắc đăng bó vết thương số tiền: 2.400.000 đồng, xin rút lại. Xét, việc rút yêu cầu nói trên là hoàn toàn tự nguyện, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217; khoản 3 Điều 218; khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ phần yêu cầu này của bà P là phù hợp.

[2] Về nội dung: Vào ngày 06/12/2017, Nguyễn Quốc Q điều khiển xe mô tô biển số 69N1-305.24, do Quy đứng tên quyền sở hữu, khi đến tuyến lộ giao thông Rạch Ráng – Tắc Thủ thuộc khóm 8, thị trấn Trần Văn Thời, huyện Trần Văn Thời gây tai nạn cho bà Nguyễn Thị P. Hậu quả: Bà P bị gãy khung chậu, gãy ổ cối trái. Phải đi điều trị tại Bệnh viện 115 thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 06/12/2017 đến ngày 15/12/2017. Vấn đề này, bà P và anh Q thừa nhận. Căn cứ Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định việc anh Q gây thương tích cho bà P là có thật. Do đó, anh Q phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà P theo Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 là phù hợp.

[3] Căn cứ để xác định thiệt hại để bồi thường sức khỏe bị xâm phạm là những chi phí, bà P yêu cầu bồi thường, nhận thấy: Đối với chi phí điều trị tại Bệnh viện 115 Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 06/12/2017 đến ngày 15/12/2017; chi phí tái khám số tiền: 2.014.484 (có hóa đơn); tiền thuê xe đưa đi điều trị và tiền xe taxi tái khám số tiền: 6.300.000 đồng; tiền thuê người chăm sóc nuội bệnh số tiền 6.000.000 đồng; chi phí ăn uống cho 02 người số tiền 6.000.000 đồng; tiền tổn thất tinh thần số tiền 3.000.000 đồng. Xét, đây là những chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, điều trị, chăm sóc, mặc dù có những chi phí bà P không cung cấp được hóa đơn, chứng từ nhưng các khoản chi trên thực tế. Căn cứ Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015, chấp nhận những chi phí này là phù hợp. Đối với khoản tiền mất thu nhập 01 người/02 tháng/3.000.000 đồng = 6.000.000 đồng. Xét: Tại phiên tòa, bà P có cung cấp cho Tòa án giấy xác nhận ngày 23/4/2019 của bà Lê Thị Phương, địa chỉ tại ấp Rạch Lăng, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, thể hiện bà P là nhân viên giúp việc, mức lương 3.000.000 đồng. Tuy nhiên, qua kiểm tra, giấy xác nhận do bà P cung cấp thì không có xác nhận của chính quyền địa phương; nội dung chỉ xác hiện tại thời điểm hiện tại ngày 23/4/2019, trong khi bà P bị tai nạn vào ngày 06/12/2017.

Do đó, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015, cần áp dụng mức lương tại thời điểm xét xử là 1.390.000 đồng/02 tháng/01 người = 2.780.000 đồng cho bà P là phù hợp. Do đó, tổng số tiền mà anh Q bồi thường cho bà P, gồm:26.094.484 đồng - 8.000.000 đồng (Bị đơn đã đưa cho nguyên đơn), còn lại: 18.094.000 đồng.

[4] Xét, đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời là có cơ sở, được chấp nhận.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc anh Nguyễn Quốc Q phải nộp số tiền 904.700 đồng (Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 5; khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm d khoản 1Điều 40; Điều 92; khoản 3 Điều 144; Điều 147; điểm c khoản 1 Điều 217; khoản 3 Điều 218; khoản 2 Điều 244; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Áp dụng: Căn cứ Điều 584; Điều 585; Điều 590 Bộ luật dân sự 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị P về việc yêu cầu anh Nguyễn Quốc Q số tiền: 18.094.000 đồng.

Buộc anh Nguyễn Quốc Q bồi thường cho bà Nguyễn Thị P số tiền: 18.094.000 đồng (Bằng chữ: Mười tám triệu không trăm chín mươi bốn ngàn đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người bị thi hành án không thi hành xong khoản tiền trên, người bị thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả.

Đình chỉ một phần khởi kiện của bà Nguyễn Thị P đối với khoản tiền 2.400.000 đồng (Tiền thuốc bắc đăng bó vết thương).

Về án phí: Buộc bị đơn Nguyễn Quốc Q phải nộp số tiền: 904.700 đồng (Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch).

Án xử sơ thẩm công khai: Nguyên đơn và bị đơn được quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

403
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/DS-ST ngày 06/05/2019 về tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe

Số hiệu:36/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về