Bản án 36/2017/HSST ngày 25/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 36/2017/HSST NGÀY 25/07/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25 tháng 7 năm 2017, tại UBND xã P, huyện Đ, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã thụ lý số: 31 /2017/HSST ngày 04/7/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: ĐẶNG VĂN U – 06/3/1979. Tên gọi khác: Đặng văn B

Trú tại: Xóm 10, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Học vấn: 7/12; Bố đẻ: Đặng Huy C – đã chết; Mẹ đẻ: Đỗ Thị T - 1944. Có vợ là Vũ Thị T - 1982 và 01 con còn nhỏ.

Tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 05/4/2016 bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã trong thời gian là 03 tháng.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/02/2017. Có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng:

1.  Trần Văn T – 1980 (Vắng mặt)

Trú tại: Xóm T, xã Y , huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

2.  Đào Xuân H - 1985(Vắng mặt)

Trú tại:  Xóm K, xã Y , huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

3.  Chu Văn H – 1977(Vắng mặt)

Trú tại: Xóm T1, xã Y , huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả xét hỏi tại phiên tòa thì nội dung vụ án như sau: Hồi 16h 30’ ngày 24/02/2017, Công an an xã Y, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên lập biên bản sự việc đối với Đào Xuân H – 1985, trú tại xóm K, xã Y và Chu Văn H – 1977, trú tại xóm T1, xã Y có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm 01 bật lửa ga và 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy. Đào Xuân H và Chu Văn H khai số ma túy mà các đối tượng sử dụng là mua của Đặng Văn U – 1979, trú tại Xóm 10, xã P. Vụ việc được chuyển đến cơ quan CSĐT Công an huyện Đ giải quyết theo thẩm quyền.

Căn cứ vào các tài liệu điều tra cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã tiến hành khám xét người, nơi ở, đồ vật đối với Đặng Văn U. Kết quả khám xét thu giữ: 01 gói chất bột màu trắng gói trong giấy màu trắng tại giường ngủ của U (U khai là heroin). 01 dao tem đã qua sử dụng. 06 nảnh giấy có kích thước 03cm x 03cm. 01 điện thoại di động và 1.800.000đ VNĐ. Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã ra Quyết định trưng cầu giám định trọng lượng (Khối lượng) chất bột thu giữ của U có phải là ma túy không. Loại ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 394 /KL-PC54 ngày 03/3/2017 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận số chất bột màu trằng thu giữ của Đặng Văn U là ma túy, loại Heroin có trọng lượng (khối lượng) là 0,055 gam . Tại cơ quan CSĐT Công an huyện Đ, U khai nhận: Bản thân U là người nghiện ma túy. Khoảng 16h ngày 21/02/1017 U bắt xe buýt từ nhà xuống khu vực bến xe khách Thái Nguyên cũ với mục đích mua ma túy về sử dụng. Tại đây U mua của một người không quen biết 05 gói ma túy loại Heroin với giá là 500.000đ. Sau đó U về nhà chia thành 07 gói nhỏ để tiện sử dụng và bán lại cho người nghiện khác. Khoảng 15h ngày 24/2/2017, U đang ở nhà thì Đào Xuân H gọi điện thoại đến hỏi mua ma túy. U đồng ý và hẹn nhau tại Xóm 9, xã P để mua bán. Tại đây U bán cho Đào Xuân H 02 gói ma túy với giá là 200.000đ. Khi mua bán có Chu Văn H chứng kiến. Ngoài ra U còn khai nhận: Khoảng 11h ngày 22/02/ 2017 U bán cho Trần Văn T, trú tại xóm T, xã Y 01 gói ma túy với giá là 100.000đ. Khoảng 19h ngày 23/02/2017 U bán cho T 01 gói ma túy với giá 100.000đ. . Số ma túy còn lại U sử dụng và bị cơ quan CSĐT Công an huyện Đ thu giữ.

Tại bản cáo trạng số 34/ KSĐT-MT ngày 04/7/2017 của Viện Kiểm Sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Đặng Văn U về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 của BLHS. Tại phiên tòa bị cáo Đặng Văn U đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Tại phiên tòa ngày hôm nay đại diện VKSND huyện Đ giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; Điểm p khoản 1 Điều 46 của BLHS năm 1999, xử phạt bị cáo mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét toàn diện đầy đủ các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Việc Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo  Đặng Văn U ( Đặng Văn B) về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 của BLHS là có căn cứ. Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh qua lời khai của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay như sau: U khai: Bản thân bị cáo là người nghiện ma tuý. Khoảng 16 giờ ngày 21/02/2017 bị cáo bắt xe buýt xuống bến xe cũ Thái Nguyên với mục đích mua ma túy về sử dụng. Khi xuống đến nơi bị cáo mua của một người đàn ông không quen biết 05 gói ma túy với giá 500.000đ. Sau khi mua được ma túy bị cáo bắt xe buýt quay về. Số ma túy trên bị cáo chia thành 07 gói nhỏ để sử dụng và bán lại cho những người nghiện khác. Khoảng 11h  ngày 22/02/2017 bị cáo đang ở nhà thì có Trần Văn T ở xóm T, xã Y gọi điện đến hỏi mua ma túy. Bị cáo đồng ý. Bị cáo đã bán cho T 01 gói ma túy với giá 100.000đ tại cổng nhà bị cáo. Khoảng 19h ngày 23/02/2017 bị cáo bán cho T 01 gói ma túy với giá là 100.000đ tại nhà bị cáo. Khoảng 15h ngày 24/02/2017 bị cáo bán cho Đào Xuân H 02 gói ma túy với giá 200.000đ tại khu vực Xóm 9, xã P. Số ma túy cơ quan Công an thu giữ là của bị cáo.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng (BL số 56-59; 62-67; 70-75 ), kết luận giám định. Hành vi bán ma tuý  cho Trần Văn T và Đào Xuân H vào các ngày 22,23,24/ 02/2017 của Đặng Văn U đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” phạm vào điểm b khoản 2 Điều 194 của BLHS.

Tại Điều 194 của BLHS năm 1999 quy định

1. Người nào… Mua bán… trái phép… chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến B năm.

2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ B năm đến mười lăm năm:

b) Phạm tội nhiều lần.

Do vậy bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật quy định. Xét tính chất hành vi của bị cáo là rất nghiêm trọng. Hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự công cộng. Như chúng ta biết ma túy là chất gây nghiện, khi sử dụng nó làm cho con người lệ thuộc vào nó, làm cho con người mất nhân cách và là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác. Chính vì thế nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi mua bán trái phép chất ma tuý. Xét tình tiết tăng nặng TNHS thì thấy bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Xét tình tiết giảm nhẹ TNHS thì thấy tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của BLHS. Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo có một nhân thân xấu. Bị cáo đã bị bị xử lý hành chính nhưng bị cáo không coi đó là bài học mà lại tiếp tục phạm tội. Nên đây là tình tiết nhân thân cần xem xét trong quá trình nghị án. Căn cứ vào tính chất hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và nhân thân của bị cáo thì thấy cần lên cho bị cáo mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tï và buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện, tài sản và thu nhập thấp nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về vật chứng: 02 phong bì niêm phong ký hiệu Z, C1 và và 01 dao tem, 06 mảnh giấy cần tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động hiệu SONY bị cáo dùng vào việc giao dịch mua bán ma túy cần tịch thu sung công. Số tiền 1.800.000đ thu giữ của bị cáo cần tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án. Số tiền 400.000đ tiền bị cáo bán ma túy cho T và H cần buộc bị cáo nộp vào ngân sách Nhà nước. Liên quan trong vụ án này Trần Văn T, Đào Xuân H, Chu Văn H có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy Công an huyện Đ đã xử lý hành chính. Người bán ma túy cho U không biết tên và địa chỉ nên không có cơ sở xử lý.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định để sung công quỹ nhà nước. Vì các lẽ nêu trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Đặng Văn U (Đặng Văn B) phạm tội; “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm b khoản 2  Điều 194; Điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Đặng Văn U ( Đặng Văn B)  07 năm tï. Thời hạn thụ hình tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 25/02/2017.

*Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong ký hiệu Z,C1 và 01 dao tem và 06mảnh giấy.

- Tịch thu sung công 01 điện thoại di động hiệu SONY.

- Buộc bị cáo nộp vào NSNN 400.000đ tiền bán ma túy.

- Tạm giữ 1.800.000đ của bị cáo để đảm bảo việc thi hành án. (Theo Quyết định chuyển vật chứng số 22/KSĐT ngày 04/7/2017 của VKSND huyện Đ).

*  Về án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc U phải chịu 200.000đ ¸ án phí HSST sung công. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. /.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2017/HSST ngày 25/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đại Từ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về