Bản án 36/2017/DS-ST ngày 15/08/2017 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 36/2017/DS-ST NGÀY 15/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 15 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 93/2017/TLST-DS ngày 16 tháng 5 năm 2017 về tranh chấp“Hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2017/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 7 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 22/2017/QĐST-DS ngày 27 tháng 7 năm 2017, giữa các đương sự:

1.Ngun đơn: Ngô Thị X, sinh năm 1963 (Có mặt) Địa chỉ: ấp R, xã M, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang

2.Bị đơn: Anh Nguyễn Văn G, sinh năm 1974 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp R, xã M, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang

3.Ngưi làm chứng: - Ông Phùng Văn T, sinh năm 1959 (Vắng mặt)

- Anh Văn Công T, sinh năm 1974 (Vắng mặt) Cùng địa chỉ: ấp R, xã M, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 16/5/2017; bản tự khai ngày 28/6/2017 cùng các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Ngô Thị X trình bày:

Trong năm 2015- 2016 bà có tham gia chơi ba dây hụi do anh Nguyễn Văn G( tên thường gọi là Tám G) làm chủ hụi, cụ thể:

- Dây thứ nhất: Hụi 500.000đồng, mỗi tháng khui một lần, khởi khui ngày 15/5/2015(Al), dây hụi này gồm có 20 phần bà tham gia chơi một phần. Khi chơi hụi anh G có đưa giấy hụi ghi tên những người tham gia chơi hụi cho bà, bà chơi hụi với tên “ cô bảy X”, dây hụi này bà đóng được đến lần khui thứ 16 với số tiền là 5.120.000đồng thì hụi bể.

- Dây hụi thứ hai: Hụi 500.000đồng, mỗi tháng khui một lần, khởi khui ngày 10/7/2015(Al), dây hụi này gồm có 20 phần bà tham gia chơi hai phần. Khi chơi hụi anh G có đưa giấy hụi ghi tên những người tham gia chơi hụi cho bà, bà chơi hụi với tên “cô bảy X”, dây hụi này đóng được đến lần khui thứ 14 của hai phần với tổng số tiền là 9.540.000đồng thì hụi bể.

- Dây hụi thứ ba: Hụi 1.000.000đồng, mỗi tháng khui một lần, khởi khui ngày 20/01/2016(Al), dây hụi này gồm có 15 phần bà tham gia chơi một phần. Khi chơi hụi anh G có đưa giấy hụi ghi tên những người tham gia chơi hụi cho bà, bà chơi hụi với tên “cô 7 X”, dây hụi này đóng được đến lần khui thứ 8 với tổng số tiền là 6.290.000đồng thì hụi bể.

Sau khi bể hụi anh G có trả cho bà được 5.000.000đồng thì ngưng.

Nay bà khởi kiện yêu cầu anh G trả cho bà số tiền vốn còn lại 15.950.000đồng khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn anh Nguyễn Văn G đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt không lý do và không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại bản tự khai ngày 27/7/2017 người làm chứng ông Nguyễn Văn T trình bày: Ông là người tham gia chơi cùng bà X hai dây hụi do anh G làm chủ hụi: dây hụi tháng 500.000đồng khởi khui ngày 25/5/2015( Al) gồm 20 phần, bà X chơi một phần và đóng hụi đến lần khui thứ 16 với số tiền là 5.120.000đồng thì hụi bể; dây hụi tháng 500.000đồng khởi khui ngày 10/7/2015(Al), bà X chơi hai phần đóng hụi đến lần khui thứ 14 với số tiền là 9.540.000đồng thì hụi bể. Ông xác định bà X là người trực tiếp chơi hụi và đóng hụi cho anh G.

Tại bản tự khai ngày 31/7/2017 người làm chứng anh Văn Công T trình bày: Anh là người tham gia chơi cùng bà X dây hụi tháng 1.000.000đồng do anh G làm chủ hụi khởi khui ngày 20/01/2016(Al) gồm 15 phần, bà X chơi một phần và đóng hụi đến lần khui thứ 8 với số tiền là 6.920.000đồng thì hụi bể.

Anh xác định bà X là người trực tiếp chơi hụi và đóng hụi cho anh G.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh trụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định vụ án có quan hệ tranh chấp “Hợp đồng góp hụi”.

-Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn G đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không lý do, do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh G.

-Về nội dung tranh chấp: Căn cứ lời trình bày và các tài liệu, chứng cứ mà bà Ngô Thị X cung cấp, xác định giữa bà X và anh Nguyễn Văn G có thực hiện giao dịch dân sự hợp đồng góp hụi, theo đó bà X có tham gia chơi ba phần hụi trong hai dây hụi 500.000đồng/tháng và một phần hụi trong dây hụi 1.000.000đồng/tháng do anh G làm chủ, khởi khui ngày 25/5/2015(Al), ngày 10/7/2015(Al) và ngày 20/01/2016(Al). Ba dây hụi trên bà X đóng đến lần khui thứ 16, 14 và thứ 8 với tổng số tiền vốn là 20.950.000đồng thì hụi bể, sau đó anh G có trả cho bà được 5.000.000đồng thì ngưng luôn cho đến nay.

Bị đơn anh Nguyễn Văn G đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp nhưng vẫn vắng mặt không lý do và không có văn bản phản đối các tình tiết, sự kiện do nguyên đơn trình bày và các tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp. Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử công nhận các tình tiết, sự kiện của nguyên đơn trình bày và tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là đúng sự thật, phù hợp lời khai của người làm chứng là ông Phùng Văn T và anh Văn Công T.

Việc anh G không thực hiện trả tiền đầy đủ cho bà X sau khi các dây hụi bể là đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà X. Nay bà X yêu cầu anh G trả cho bà số tiền 15.950.000đồng còn lại khi bản án có hiệu lực pháp, xét yêu cầu khởi kiện của bà X là có cơ sở, phù hợp quy định của pháp luật và phù hợp với nhận định trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà X nên anh G phải chịu 797.500đồng án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 688, Điều 471 và khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự 2015;

- Căn cứ các Điều 26, 92, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Nghị định 144/2006/NĐ- CP ngày 27/11/2006 về họ, hụi, biêu, phường;

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị X.

- Buộc anh Nguyễn Văn G có nghĩa vụ trả cho bà Ngô Thị X số tiền 15.950.000( mười lăm triệu chín trăm năm mươi nghìn)đồng. Thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ, nếu anh G chậm thực hiện trả tiền thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi, theo mức lãi suất chậm trả do các bên thỏa thuận không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

-Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn G phải chịu 797.500 (bảy trăm chín mươi bảy nghìn năm trăm) đồng. Hoàn lại cho bà Ngô Thị X 625.000 ( sáu trăm hai mươi lăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000784, ngày 16 tháng 5 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

Bà Ngô Thị X có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn G có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2017/DS-ST ngày 15/08/2017 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:36/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về