Bản án 361/2020/HS-ST ngày 05/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN - TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 361/2020/HS-ST NGÀY 05/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 9 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 339/2020/HSST ngày 07 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 358/2020/QĐXXST-HS ngày 24/8/2020 đối với bị cáo:

Lâm Q, sinh năm 1991 tại tỉnh Sóc Trăng; thường trú: Ấp T, thị trấn P huyện P, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Khơ me; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Lâm O, sinh năm 1969 và con bà Dương Thị U, sinh năm 1970; bị cáo có vợ tên Lâm Thị P, sinh năm 1995 và có 01 con sinh năm 2012; tiền sự, tiền án: Không có.

Nhân thân: Ngày 11/5/2011 Công an thị xã Dĩ An (nay là Thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác, tháng 6/2011 chấp hành xong nộp phạt (hồ sơ gốc bị thất lạc) Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 16/5/2020, có mặt.

Người chứng kiến: Anh Tăng H, sinh năm 1981, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lâm Q sử dụng ma túy từ đầu năm 2020. Khoảng 20 giờ ngày 16/5/2020, bị cáo Q mượn xe mô tô không rõ biển số của người bạn ở chung dãy trọ điều khiển đến khu vực cầu vượt Gò Dưa, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh gặp người đàn ông không rõ nhân thân mua 200.000 đồng ma túy, đến 22 giờ cùng ngày bị cáo Q nhờ bạn Tăng H lấy xe mô tô của H biển số 84G1-577.39 chở Q ra cầu vượt Sóng Thần để lấy tiền công làm thuê, cả hai lưu thông đến trước số nhà 43 đường B, khu phố Đ2, phường B, Thành phố K bị lực lượng Công an phường An Bình kiểm tra hành chính, lúc này Q bỏ gói ma túy đã mua trước đó xuống đất thị bị phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Đối với Tăng H khi chở bị cáo Q không biết Q cất giữ ma túy nên không xử lý.

Vật thu giữ: 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; xe mô tô biển số 84G1-577.39.

Kết luận giám định số 304/MT-PC09 ngày 25/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng thu được của Q gửi giám định là ma túy, khối lượng là 0,1628 gam, loại Methamphetamine.

Vật chứng đã xử lý: Xe mô tô biển số 84G1-577.39 là tài sản hợp pháp của Tăng H cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh H.

Cáo trạng số 368/CT – VKS ngày 06 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lâm Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Q từ 14 đến 16 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định.

Bị cáo Q không tranh luận, bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo Lâm Q: Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang 16/5/2020, lời khai người chứng kiến, biên bản hỏi cung bị cáo Q thể hiện bị cáo Q sử dụng ma túy, ngày 16/5/2020 khi kiểm tra hành chính bị cáo Q thu giữ 0,1628 gam Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Như vậy, hành vi trên của bị cáo Q đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 368/CT-VKS ngày 06/8/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Q không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo Q có nhân thân xấu thể hiện không có nghề nghiệp, bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác. Lần phạm tội này của bị cáo thể hiện sự không hướng thiện của bản thân cũng như việc chấp hành pháp luật.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo Q phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 05 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

[4] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng, mức hình phạt đối với bị cáo Q phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[6] Án phí sơ thẩm: Bị cáo Q phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lâm Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lâm Q 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 16/5/2020.

2. Các biện pháp tư pháp Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư niêm phong bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy, khối lượng 0,1132 gam là mẫu vật hoàn lại sau giám định Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/8/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Bị cáo Lâm Q phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 361/2020/HS-ST ngày 05/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:361/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về