Bản án 360/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 360/2020/HS-ST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 17/11/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 350/2020/HSST ngày 16/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 374/2020/QĐXXST-HS ngày 05/11/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lưu Văn D; tên gọi khác: Không; Sinh ngày 09 tháng 3 năm 1974; tại tỉnh Đắk Lắk:

Nơi cư trú: Số X đường K, tổ dân phố Y, phường Kh, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 11/12:

Con ông Lưu Văn M (Đã chết); Con bà: Đỗ Thị H, sinh năm: 1939, hiện trú tại: phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Bị cáo có vợ là Lê Thị Mỹ L, sinh năm: 1978 (đã ly hôn năm 2010); có 01 con sinh năm: 2005, hiện đều trú tại: phường Kh, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk:

Tiền án: Không; Tiền sự: Không:

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú - (Có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Anh Trần Văn Ph, sinh năm 1985 Địa chỉ: Số Y đường K, phường Kh, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk - (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 23/4/2020, anh Trần Văn Ph, sau khi uống rượu đi về nhà mình tại địa chỉ số Y đường K, phường Kh, thành phố B. Khi đi đến nhà Lưu Văn D, tại địa chỉ số Y đường K, phường Kh, thành phố B, thì tại đây anh Ph gặp D và xảy ra mâu thuẫn cãi nhau về số tiền anh Ph nợ D trước đó. Anh Ph chạy về nhà lấy 01 cây gậy gỗ (dài 95cm, bản dẹp, có đầu rộng nhất 06cm, đầu nhỏ nhất 03cm, dày 01cm) đi đuổi theo D, rồi dùng tay trái cầm gậy gỗ đánh sượt trúng vào vùng lưng của D không để lại thương tích. Bị anh Ph đánh nên D bực tức, chạy vào sân nhà mình lấy 01 dao rựa (cán bằng sắt, dài 62cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 17cm, mũi dao nhọn cong ) đi ra trước nhà số Z đường K. Tại đây thấy anh Ph vẫn đang cầm gậy gỗ vung lên đánh về phía mình nên D đã bực tức, không kìm chế được, dùng tay phải cầm dao rựa chém 01 phát hướng từ trên xuống trúng vào bàn tay trái của anh Ph, làm 3 ngón tay áp cuối của anh Ph chảy nhiều máu; Thấy tay chảy nhiều máu anh Ph chạy về nhà và gọi cho gia đình đưa đi cứu chữa tại Bệnh viện Đại học Tây Nguyên:

Còn D đi vào nhà mình. Sau đó, anh Ph trình báo đến Cơ quan điều tra để xử lý.

Quá trình khám nghiệm hiện trường Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, thu giữ: 01 cây gậy gỗ dài 95cm, bản dẹp, có đầu rộng nhất 06cm, đầu nhỏ nhất 03cm, dày 01cm và 01 đôi dép da màu đen, có kích thước 30cm x 10cm, có in dòng chữ “Milan”. Bị cáo Lưu Văn D đã tự nguyện giao nộp 01 dao rựa, cán bằng sắt, dài 62cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 17cm, mũi dao nhọn cong, loại dao một mặt lưỡi, để phục vụ công tác điều tra.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 562/TgT-TTPY ngày 26/5/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Ph là 29%; vật tác động: Vật sắc; Vết thương để lại sẹo, gãy xương móc, xương bàn III, IV, đứt cung động mạch tay nông và thần kinh trụ bàn tay trái do vật sắc tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ trái qua phải.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Trần Văn Ph yêu cầu Lưu Văn D phải bồi thường các khoản (chi phí điều trị, tiền mất thu nhập không lao động được, công người chăm sóc, chi phí đi lại và tổn thất tinh thần…) tổng cộng là:

48.500.000 đồng. Lưu Văn D đã tự nguyện thỏa thuận và bồi thường cho anh Trần Văn Ph tổng số tiền: 25.000.000 đồng; Hai bên đã tự nguyện thỏa thuận, thống nhất Lưu Văn D có nghĩa vụ tiếp tục bồi thường cho anh Ph số tiền còn lại là: 23.500.000 đồng và anh Ph cũng đã viết đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại bản Cáo trạng số: 350/CT-VKS-HS ngày 15/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân TP. Buôn Ma Thuột, truy tố bị cáo Lưu Văn D, về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm a khoản 1 điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS.

Tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi gây thương tích cho anh Ph.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Buôn Ma Thuột đã luận tội, phân tích, chứng minh các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lưu Văn D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng điểm a khoản 1 điểm đ khoản 2 Điều 134; Điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo: Lưu Văn D từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 04 năm đến 05 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

* Các biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 46, 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; các Điều 584, 585, 590 Bộ luật dân sự:

- Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị buộc bị cáo Lưu Văn D phải tiếp tục bồi thường số tiền 23.500.000 đồng cho anh Trần Văn Ph.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy đối với 01 dao rựa, cán bằng sắt, dài 62cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 17cm, mũi dao nhọn cong, loại dao một mặt lưỡi và 01 cây gậy gỗ dài 95cm, bản dẹp, có đầu rộng nhất 06cm, đầu nhỏ nhất 03cm, dày 01cm, là hung khí, vật chứng của vụ án, không còn giá trị sử dụng.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho anh Ph là chủ sở nhận sử dụng đối với 01 đôi dép da màu đen, có kích thước 30cm x 10cm, có in dòng chữ “Milan”.

Bị cáo Lưu Văn D không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì thêm; bị cáo đã biết lỗi và rất hối hận về hành vi sai trái của mình, bị cáo đồng ý tự nguyện bồi thường số tiền còn lại 23.500.000 đồng (theo yêu cầu của anh Ph). Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo để có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, tự cải tạo thành người có ích cho xã hội và tiếp tục làm thuê lấy tiền để bồi thường phần còn lại cho anh Trần Văn Ph.

Bị hại - anh Trần Văn Ph không có ý kiến tranh luận gì; bị hại biết mình cũng có lỗi, có hành vi sai trái trước với Lưu Văn D nên đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được ở ngoài để tự lao động, cải tạo và lo cho con cái.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình thực hiện các quyết định điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo D không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

Tại phiên tòa, bị cáo Lưu Văn D khai nhận: Khoảng 21 giờ ngày 23/4/2020, tại trước nhà Lưu Văn D, do xuất phát từ mâu thuẫn cá nhân và do anh Ph dung gậy đánh bị cáo (không gây thương tích) nên Lưu Văn D đã dùng dao rựa, chém 01 phát trúng vào bàn tay trái của anh Ph, gây tổn thương cơ thể cho anh Trần Văn Ph là: 29%.

Xét lời khai của bị cáo Lưu Văn D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và lời khai của bị hại anh Trần Văn Ph, cùng các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo Cáo trạng số: 350/CT-VKS-HS ngày 15/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Qua đó có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Lưu Văn D có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng đã dùng dao rựa chém 01 phát gây tổn thương cơ thể cho anh Ph là: 29%. Do đó hành vi của bị cáo Lưu Văn D đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (gọi tắt là Bộ luật hình sự).

Điều 134 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

a) Dùng hung khí nguy hiểm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.” 

[3] Xét tính chất, mức độ do hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội; vì mâu thuẫn trong cuộc sống và do anh Ph có hành vi dùng gậy gỗ đánh sượt vào lưng bị cáo làm cho bị cáo bực tức, không kì m chế được nên đã dùng dao rựa chém gây thương tích cho anh Ph. Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp định khung “Dùng hung khí nguy hiểm” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự và đã xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người bị hại, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó HĐXX thấy cần thiết áp dụng mức hình phạt phù hợp tương ứng với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhằm cải tạo, giáo dục riêng đồng thời răn đe, phòng ngừa chung trong đời sống xã hội về loại tội phạm này.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thật sự thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; Bị cáo đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại, được bị hại làm đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đồng thời, nguyên nhân dẫn đến hành vi gây thương tích của bị cáo là do lỗi của bị hại - anh Ph gây mâu thuẫn trước và đã dùng gậy gỗ đánh vào lưng bị cáo, tiếp đó anh Ph vẫn dùng gậy gỗ đánh về phía bị cáo làm bị cáo bực tức, bị kích động về mặt tinh thần, không thể kìm chế được nên đã bột phát nhất thời thực hiện hành vi dùng dao gây thương tích cho anh Ph. Hành vi của anh Ph dùng gậy gỗ đánh Lưu Văn D cũng đã bị Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử phạt hành chính (bằng hình phạt tiền). HĐXX xét thấy trong trường hợp này, ngoài việc mâu thuẫn phát sinh và do lỗi từ phía bị hại thì bị cáo D cũng phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của anh Ph gây ra.

Do đó HĐXX cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình trong khi lượng hình, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo D.

Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự và phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng..., vì vậy việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội là không cần thiết, có thể áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng án treo để tự cải tạo ngoài xã hội, dưới sự giám sát của gia đình và địa phương cũng đủ giáo dục bị cáo thành công dân tốt và không gây nguy hiểm, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đồng thời thể hiện được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

Xét tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột có đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo là có căn cứ, phù hợp nên cần chấp nhận.

[5] Về các biện pháp tư pháp:

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại - anh Trần Văn Ph yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền 48.500.000 đồng (gồm các khoản: chi phí điều trị, tiền mất thu nhập không lao động được, công người chăm sóc, chi phí đi lại và tổn thất tinh thần…); Lưu Văn D và anh Ph thỏa thuận, thống nhất việc bị cáo đã đã tự nguyện bồi thường cho anh Ph được số tiền: 25.000.000 đồng; bị cáo D có nghĩa vụ tiếp tục bồi thường cho anh Ph số tiền còn lại là 23.500.000 đồng.

- Về xử lý vật chứng: Đối với 01 dao rựa, cán bằng sắt, dài 62cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 17cm, mũi dao nhọn cong, loại dao một mặt lưỡi (hung khí bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội) và 01 cây gậy gỗ dài 95cm, bản dẹp, có đầu rộng nhất 06cm, đầu nhỏ nhất 03cm, dày 01cm (hung khí anh Ph dùng để đánh bị cáo D) là vật chứng của vụ án, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 đôi dép da màu đen, có kích thước 30cm x 10cm, có in dòng chữ “Milan”, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho anh Ph là chủ sở nhận sử dụng là phù hợp.

[6] Đối với hành vi của của anh Trần Văn Ph đã dùng gậy gỗ đánh nhau với Lưu Văn D nhưng không gây thương tích gì, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Văn Ph về hành vi "Đánh nhau" quy định tại điểm a khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST và 1.175.000 đồng án phí DSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lưu Văn D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng điểm a khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134; Các điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lưu Văn D: 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho UBND phường Khánh Xuân, thành phố Buôn Ma Thuột giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

* Các biện pháp tư pháp: Áp dụng các điều 46, 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; các điều 584, 585, 590 Bộ luật dân sự:

- Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự thỏa thuận giữa bị cáo D với anh Ph; Buộc Lưu Văn D có nghĩa vụ tiếp tục bồi thường cho anh Trần Văn Ph số tiền là: 23.500.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của BLDS năm 2015.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 dao rựa (cán bằng sắt, dài 62cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 17cm, mũi dao nhọn cong, loại dao một mặt lưỡi) và 01 cây gậy gỗ (dài 95cm, bản dẹp, có đầu rộng nhất 06cm, đầu nhỏ nhất 03cm, dày 01cm):

(Có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16/10/2020 giữa Công an TP. Buôn Ma Thuột và Chi cục Thi hành án dân sự TP. Buôn Ma Thuột).

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho anh Trần Văn Ph là chủ sở hữu nhận sử dụng 01 đôi dép da màu đen, có kích thước 30cm x 10cm, có in dòng chữ “Milan”.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 BLTTHS; Áp dụng khoản 1 Điều 21 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lưu Văn D phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.175.000 (Một triệu một trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 360/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:360/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về