TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 359/2020/HS-PT NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 361/2020/TLPT-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Trần Ngọc M. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2020/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện L
- Bị cáo có kháng cáo: Trần Ngọc M, sinh năm 1981; Nơi sinh: Tỉnh Đồng Tháp; Hộ khẩu thường trú: Không có; Chỗ ở: Ấp B, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; Quốc tịch: Việt nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Không biết chữ, Cha tên: Trần Ngọc M1 (đã chết); Mẹ tên: Nguyễn Thị L (đã chết); Vợ tên: Nguyễn Thị Diễm M2 và có 02, con lớn nhất 5 tuổi, con nhỏ nhất 4 tuổi; Tiền án, tiền sự Không có; Nhân thân: Năm 1999 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xử phạt 18 năm tù về tội “Giết người”, chấp hành xong ngày 04/6/2012; Tạm giữ ngày 21/12/2018, tạm giam ngày 24/12/2018 cho bảo lãnh ngày 03/02/2019; Bị cáo đang tại ngoại và có mặt tại phiên tòa
Người bị hại: Huỳnh Thanh H, sinh năm 1979; HKTT: Ấp B, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; chỗ ở: Ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp;
Người làm chứng:
1. Châu Bích P, sinh năm 1969;
2. Nguyễn Thị Ngọc P1, sinh năm 1992;
3. Lê Kha D, sinh năm 1995;
4. Phan Minh D1, sinh năm 1992;
5. Trần Ngọc M3, sinh năm 1979;
6. Trần Ngọc M4, sinh năm 1987;
7. Trần Ngọc M, sinh năm 1983;
Cùng trú tại: Ấp B, xã B, huyện L, Đồng Tháp;
8. Đỗ Lưu L1, sinh năm 1987;
9. Võ Ngọc H1, sinh năm 1988;
Cùng trú tại: Ấp A, xã B, huyện L, Đồng Tháp;
10. Nguyễn Thị T, sinh năm 1983;
Trú tại: ấp B, xã B, huyện L, Đồng Tháp;
Người bị hại và những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra trong vụ án, người bị hại không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Ngọc M3, Trần Ngọc M, Trần Ngọc M5, Trần Ngọc M4 là anh em ruột, cùng trú tại ấp B, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Vào khoảng 21 giờ ngày 16/01/2016, Trần Ngọc M3 trong người đã có rượu đi đến quán Karaoke KC ở ấp B, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Tháp thì gặp Huỳnh Thanh H cùng với Võ Ngọc H1, Đỗ Lưu L1 và Phan Minh D1 đang uống bia tại phòng số 5. Cả hai bên nói chuyện một lúc thì xảy ra mâu thuẫn. H cho rằng M3 không tôn trọng mình nên dùng tay đánh vào mặt M3. M3 bỏ ra xe mô tô mở cốp xe lấy con dao có hai lưỡi ở hai đầu tổng chiều dài 34 cm, mỗi lưỡi dao dài 14 cm, chiều rộng mỗi lưỡi dao 2,5cm chạy vào phòng số 5. Khi vào phòng thì bị H1, L1, D1 cầm chai bia quơ qua lại không cho M3 xông vào. Thấy vậy, chị Châu Bích P chủ quán Karaoke KC vào khuyên can rồi đưa M3 lên xe chở về nhà.
Theo lời khai của Trần Ngọc M4 và chị Châu Bích P. Khi chị P chở M3 ra đến cổng quán thì M4 và M cũng vừa tới. Thấy M4 và M đều cầm dao tự chế chạy thẳng vào quán hỗ trợ nên M3 hung hăng nhảy xuống xe và hô lên “Chém nó luôn” rồi cùng M4, M xông vào phòng tiếp tân dùng dao chém H nhiều cái gây thương tích. Đồng thời, Đỗ Lưu L, Phan Minh D1, Võ Ngọc H1 khai, xác nhận thời điểm trên thấy M cùng đồng bọn xông vào phòng tiếp tân dùng dao tự chế chém H. Trần Ngọc M5 hay tin M3 đánh nhau cũng chạy đến quán KC hỗ trợ. Lúc ấy M5 thấy M3, Mỹ, M4 đang đánh nhau với nhóm của H ở trong quán nên đứng ở cửa ra vào đợi nhóm của H chạy ra để đánh.
Sau khi bị chém, H bỏ chạy ra khỏi quầy tiếp tân thì M3, M, M4 tiếp tục đuổi theo. Khi đến khu vực hành lang ở giữa quán thì H bị vấp té ngã ngửa mặt quay về hướng nhóm của M3 thì thấy M3, M, M4 xông đến. M cầm cây dao tự chế chém một cái từ trên xuống trúng ngay mặt trước cổ chân trái của H một cái gây thương tích. H đứng lên bỏ chạy ra ngoài thì bị M5 đứng nấp ở cửa dùng các chai bia ném liên tiếp vào người H. H tiếp tục bỏ chạy ra khỏi cổng quán khoảng 20 mét thì bị vấp ngã, M3, M4, M, M5 đuổi theo. M3 bỏ con dao có hai lưỡi ở hai đầu rồi giật lấy con dao tự chế bằng kim loại dài 0,6m, chiều rộng lưỡi dao 6cm trên tay của M4, M3 cầm 02 tay chém liên tiếp nhiều cái vào người H. Lúc này M, M4 cũng cầm dao tự chế xông vào chém nhiều cái vào người H làm H bất tỉnh. M5 thấy H nằm bất tỉnh, sợ H chết. Đồng thời, thấy Công an xã B đến nên M5 ôm M3 lại, cả nhóm bỏ đi về nhà H được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa trung tâm A điều trị đến ngày 22/01/2016 thì xuất viện.
Cơ quan điều tra đã thu giữ:
- 01 đôi dép quai kẹp bằng nhựa màu xanh; 01 cái nón kết màu đen; 01 con dao dài 0,6m, rộng 6cm; 01 con dao có lưỡi ở hai đầu tổng chiều dài 34 cm, mỗi lưỡi dao dài 14 cm, chiều rộng mỗi lưỡi dao 2,5cm; 01 con dao dài 0,51m, rộng 6,5cm; nhiều mảnh vỡ chai bia Sài Gòn; 01 chai bia Sài Gòn còn nước bên trong. Toàn bộ tang vật đã chuyển cho Cơ quan Thi hành án dân sự huyện L tiêu hủy theo quy định pháp luật.
- Trích xuất dữ liệu hình ảnh từ camera quán karaoke Kim cương 06 đoạn clip có liên quan đến vụ án và tiến hành niêm phong theo đúng quy định. Clip được trích xuất thể hiện hiện trường tại nơi đánh nhau trong quá KC có 03 đối tượng cầm dao chém bị hại và một đối tượng nấp ở phía ngoài cửa ra vào ném liên tiếp các chai bia về phía bị hại.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 43/TgT-TTPY ngày 04/02/2016 của Trung tâm pháp y Đồng Tháp, kết luận: Huỳnh Thanh H, sinh năm 1979 như sau:
- Sẹo vết thương phần mềm vùng đỉnh thái dương phải kích thước 6cm x 2cm sẹo lành, không dấu khuyết xương.
- Sẹo vết thương phần mềm vùng đỉnh thái dương trái kích thước 1cm x 1cm sẹo lành, không dấu khuyết xương.
- Xây xát da không liên tục bả vai phải kích thước 17cm x 0,1cm sẹo lành.
- Hai sẹo vết thương phần mềm vùng vai lung trái kích thước 16cm x 0,2cm và 8cm x 0,2cm sẹo lành.
- Xây xát da vùng vai trái kích thước 11cm x 0,1 cm sẹo lành.
- Xây xát da vùng mạn sườn phải kích thước 4cm x 0,2cm, vùng bụng phải kích thước 3,5cm x 0,2cm sẹo lành.
- Xây xát da vùng thắt lưng phải kích thước 8cm x 0,1cm sẹo lành.
- Sẹo và thương phần mềm mặt ngoài cánh tay phải kích thước 12cm x 4cm lành xấu.
- Xây xát da mu bàn tay phải kích thước 3cm x 0,5cm
- Xây xát da mặt trước gối phải kích thước 2,5cm x 0,5cm
- Sẹo vết thương phần mềm mặt trước 1/3 cánh tay trái kích thước 4,5cm x 0,2cm sẹo lành
- Ba vết xây xát da vùng khuỷu tay, cẳng tay trái kích thước 6cm x 0,1cm; 6cm x 0,1 cm và 3cm x 0,5cm sẹo lành.
- Sẹo vết thương phần mềm ngón II bàn tay trái kích thước 4cm x 0,1cm sẹo lành
- Sẹo vết thương phần mềm nách trái kích thước 4cm x 0,2cm sẹo lành.
- Xây xát da vùng bụng trái kích thước 2cm x 0,1cm sẹo lành.
- Xây xát da mặt trước gối trái kích thước 2cm x 1cm sẹo lành.
- Sẹo vết thương phần mềm mặt trước cổ chân trái kích thước 5cmx 0,2cm sẹo lành.
- Hai vết xây xát da 1/3 dưới mặt trước cẳng chân trái kích thước 9cm x 0,1 cm và mặt ngoài cẳng chân trái kích thước 7cm x 0,1 cm.
Kết luận: Đa sẹo vết thương phần mềm, xây xát da vùng đầu, vùng lưng, hai tay, hai chân. Tỷ lệ thương tật 15% (Mười lăm phần trăm) tại thời điểm giám định.
Sau khi gây thương tích cho H thì M3, M, M5, M4 đã bỏ trốn, đến ngày 05/06/2016 thì bắt được M3. Ngày 22/9/2016 Tòa án nhân dân huyện L tuyên phạt Trần Ngọc M3 03 năm 06 tháng tù về tội cố ý gây thương tích và buộc M3 bồi thường cho anh H 19.500.000 đồng. Trần Ngọc M3 đã thống nhất bồi thường và không yêu cầu M5, M, M4 trả lại.
Đến ngày 15/10/2016 thì bắt được Trần Ngọc M4. Tại bản án số 49/2016/HSST, ngày 29/12/2016 Tòa án nhân dân huyện L tuyên bố bị cáo M4 phạm tội “Cố ý gây thương tích”, xử phạt M4 02 năm 06 tháng tù.
Đến ngày 01/08/2017, Trần Ngọc M5 đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L đầu thú Tại bản án số 03/2018/HSST Ngày 9/2/2018, Tòa án nhân dân huyện L tuyên bố bị cáo M5 phạm tội “Cố ý gây thương tích”, xử phạt M5 02 năm tù
Đến ngày 21/12/2018, Trần Ngọc M bị bắt theo quyết định truy nã.
Quá trình điều tra, truy tố bị cáo M không thừa nhận có tham gia gây thương tích cho Huỳnh Thanh H. Bị cáo cho rằng khi hay tin M3 đánh nhau với nhóm của H thì M có đến hiện trường, trên đường đi M nhặt 01 khúc gỗ Xoài nằm trên đường mang theo, nhưng khi đến cổng quán KC thì thấy H chảy máu nhiều nên sợ H bị M3 chém chết nên M ném bỏ khúc gỗ và nhảy vào ôm M3 lại, mục đích để can ngăn không cho M3 chém tiếp, sau đó lực lượng Công an đến rồi giải tán.
Người làm chứng Đỗ Lưu L1 thay đổi lời khai xác định M có đến hiện trường nhưng không vào quầy tiếp tân chém H.
Người làm chứng Châu Bích P, là chủ quán KC và cũng là người trực tiếp chứng kiến vụ việc. Sau khi M bị bắt, chị P trình bày lại, cho rằng M không tham gia chém H.
Tại bản án số 34/2020/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện L đã quyết định:
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Ngọc M phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 và điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc M 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt nhưng trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2018 đến ngày 03/02/2019.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 06 tháng 10 năm 2020, bị cáo Trần Ngọc M có đơn kháng cáo kêu oan cho rằng bị cáo không phạm tội.
Ngày 14/12/2020, bị cáo có đơn xin thay đổi nội dung kháng cáo, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu quan điểm: Hành vi của bị cáo Trần Ngọc M bị Tòa án cấp sơ thẩm quy kết về tội “Cố ý gây thương tích”, áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Sau khi án sơ thẩm tuyên, bị cáo M kháng cáo kêu oan. Ngày 14/12/2020, bị cáo có đơn xin thay đổi nội dung kháng cáo, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Ngọc M đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và bị cáo có cung cấp xác nhận của chính quyền địa phương về hoàn cảnh gia đình của bị cáo. Theo đó, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, bị cáo là lao động chính trong gia đình có 02 con còn nhỏ, vợ bị cáo bị bệnh nặng. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà cấp sơ thẩm chưa xem xét cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa phần Quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt, giảm nhẹ cho bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.
Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Trần Ngọc M thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Khi hay tin Trần Ngọc M3 là anh ruột của bị cáo đánh nhau với nhóm của Huỳnh Thanh H thì M đến hiện trường. Chỉ vì bênh vực anh ruột của mình, bị cáo đã sử dụng cây dao tự chế chém một cái từ trên xuống trúng ngay mặt trước cổ chân trái của H gây thương tích. Sau khi gây án, bị cáo cùng vợ, con đi làm ăn xa, không biết mình bị khởi tố cho đến khi bị bắt theo lệnh truy nã thì bị cáo mới biết chứ bị cáo không bỏ trốn. Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận chính bị cáo Trần Ngọc M đã dùng dao tự chế cùng đồng bọn chém gây thương tích cho bị hại Huỳnh Thanh H với tổng tỷ lệ thương tật là 15%. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.
[3] Hành vi của bị cáo Trần Ngọc M là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật. Bị cáo là người đã trưởng thành, có thể chất, tinh thần phát triển bình thường, có khả năng điều khiển hành vi, giao tiếp xã hội, nhận thức được pháp luật, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định. Bị cáo nhận thức được dao tự chế là hung khí nguy hiểm, nhận thức được hành vi dùng dao chém vào cơ thể người khác là sẽ gây thương tích, là vi phạm pháp luật nhưng vì bênh vực anh mình mà bị cáo vẫn thực hiện và hậu quả đã xảy ra làm cho người bị hại bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là 15%, chứng tỏ việc phạm tội của bị cáo là cố ý và thực hiện tội phạm đã hoàn thành.
[4] Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Ngọc M về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan ức gì cho bị cáo. Sau khi án sơ thẩm tuyên, bị cáo M kháng cáo kêu oan. Ngày 14/12/2020, bị cáo có đơn xin thay đổi nội dung kháng cáo, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Ngọc M đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và bị cáo có cung cấp xác nhận của chính quyền địa phương về hoàn cảnh gia đình của bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình có 02 con còn nhỏ, vợ bị cáo bị bệnh nặng để xin giảm nhẹ hình phạt. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà cấp sơ thẩm chưa xem xét cho bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa phần quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Do kháng cáo của bị cáo M được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.
Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Ngọc M. Sửa phần quyết định của bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt.
Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc M phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc M 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt nhưng trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2018 đến ngày 03/02/2019.
2. Về án phí: Bị cáo Trần Ngọc M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 359/2020/HS-PT ngày 30/12/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 359/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về