TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 357/2021/HS-PT NGÀY 18/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 340/2021/TLPT-HS ngày 19 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo Lê Công H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2021/HSST ngày 03/3/2021 của Tòa án nhân dân quận N, thành phố Hà Nội.
* Bị cáo có kháng cáo: Lê Công H, sinh năm 1998; giới tính nam; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú tổ dân phố Mai Diêm, thị trấn D, huyện Th, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa 12/12; dân tộc Kinh; quốc tịch Việt Nam; tôn giáo không; con ông Lê Công Ư và bà Nguyễn Thị L; tiền án, tiền sự không. Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ tạm giam kể từ ngày 05/10/2020 đến ngày 31/12/2020 thay đổi biện pháp ngăn chặn, hiện đang tại ngoại - có mặt tại phiên tòa.
Trong vụ án còn có người bị hại không kháng cáo và không có kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận N và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận N, Hà Nội thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Công H và chị Trần Thị Kim Th cùng học lớp tiếng Nhật tại Phòng học 3 Trung tâm dậy nghề Thăng Long, địa chỉ Số 6 C9 khu đô thị Mỹ Đình 1, phường C, quận N, Hà Nội. Khoảng 07 giờ ngày 09/9/2020, H đến lớp học nhưng không có ai ở lớp, Hoài quan sát thấy trên bàn học của chị Th để chiếc túi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H lục túi của chị Th thì thấy có chiếc thẻ ATM của Ngân hàng Sacombank (Trong thẻ có số tiền 76.796.453 đồng) nên lấy và cất giấu thẻ trong. Đến khoảng 19 giờ ngày 10/9/2020, H cầm chiếc thẻ ATM trộm cắp được của chị Th đến cây rút tiền ATM của Ngân hàng Agribank số 18 Trần Hữu Dực, phường C, quận N, Hà Nội để rút tiền. Do không biết mật khẩu, H thử nhập mật khẩu là ngày, tháng, năm sinh của chị Th (010298) thì mở được tài khoản. Sau khi mở được tài khoản Ngân hàng, Hoài rút tổng cộng 05 lần với số tiền 12.500.000 đồng (Mất 12.500 đồng phí rút tiền). Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, H nhắn tin cho anh Vũ Ngọc Ph nói muốn mua 01 chiếc điện thoại Iphone 11 Pro. Sau khi thỏa thuận được giá, H hẹn anh Ph mang điện thoại đến gặp tại tòa C6 khu đô thị Mỹ Đình 1, phường C, N, Hà Nội. Sau khi kiểm tra điện thoại, H nói với anh Ph sẽ thanh toán bằng thẻ ATM và bảo đó là tiền của anh trai từ nước ngoài gửi nhờ vào thẻ ATM của bạn. Do ở cùng quê nên anh Ph không nghi ngờ gì rồi sử dụng chiếc thẻ ATM Ngân hàng Sacombank của chị Th để quẹt vào máy Pos của Ngân hàng ACB thanh toán số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi mua điện thoại, H về nhà nghỉ ở gần đó để ngủ. Đến khoảng 6 giờ 30 phút ngày 11/9/2020, H từ nhà nghỉ đến cây rút tiền Ngân hàng Agribank số 18 Trần Hữu Dực, C, N, Hà Nội tiếp tục sử dụng chiếc thẻ ATM của chị Th thực hiện 05 lần rút tiền trong tài khoản Ngân hàng với tổng số tiền 15.000.000 đồng (Mất 12.500 đồng phí rút tiền) rồi về lớp học như bình thường. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, H đến cửa hàng điện thoại của Ph tại địa chỉ số 46 ngõ 298 Tây Sơn, Đống Đa, Hà Nội để đổi điện thoại khác nhưng không đổi được. Sau khi về Trung tâm dậy nghề Thăng Long, H nhắn tin cho Ph nói mua chiếc điện thoại Iphone 11 Pro max và hẹn Ph đến khu đô thị Mỹ Đình 1, Nam Từ Liêm. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Ph và Diễn đến gặp H tại quán cafe tại khu vực Mỹ Đình 1, H sử dụng thẻ ATM của chị Th thanh toán tiền mua điện thoại của anh Ph thông qua máy Pos Ngân hàng ACB với tổng số tiền 29.000.000 đồng, sau đó H về Trung tâm dậy nghề Thăng Long ngủ. Đến sáng ngày 12/9/2020, H tiếp tục sử dụng chiếc thẻ ATM của chị Th đến cây ATM gần Trung tâm dậy nghề Thăng Long để rút số tiền 200.000 đồng (Mất 2.500 đồng phí rút tiền) rồi bắt xe khách về quê ở Diêm Điền, Thái Thụy, Thái Bình. Do đã rút hết tiền nên H vứt chiếc thẻ ATM của chị Th trên đường về (Không rõ địa điểm vứt). Đến chiều cùng ngày, H trở về trung tâm dậy nghề Thăng Long.
Đến ngày 14/9/2020, chị Th phát hiện bị mất tiền trong tài khoản Ngân hàng và mất chiếc thẻ ATM Ngân hàng Sacombank nên đã thông báo cho các bạn cùng lớp học và giáo viên biết rồi đến Công an quận Nam Từ Liêm trình báo. Do lo sợ bị phát hiện nên ngày 15/9/2020, H bỏ học và trốn khỏi Trung tâm. Ngày 05/10/2020 H đến Công an quận N đầu thú.
Tại cơ quan điều tra, Lê Công H khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Tổng số tiền H đã rút trong thẻ AMT chiếm đoạt của chị Trần Thị Kim Th là 76.700.000 đồng (Mất 27.500 đồng phí rút tiền). Số tiền còn lại trong thẻ ATM của chị Th là 68.953 đồng.
Về dân sự: Đại diện gia đình Lê Công H đã bồi thường số tiền 80.000.000 đồng cho chị Trần Thị Kim Th. Chị Th đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu bồi thường về dân sự.
Đối với anh Vũ Ngọc Ph quá trình điều tra xác định khi bán 02 chiếc điện thoại cho H, anh Ph không được biết số tiền H thanh toán điện thoại là tiền do trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 32/2021/HSST ngày 03/3/2021 của Tòa án nhân dân quận N, thành phố Hà Nội đã quyết định:
1. Tuyên bố bị cáo Lê Công H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 173 Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:
- Xử phạt bị cáo Lê Công H 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian tạm giữ tạm giam từ ngày 05/10/2020 đến ngày 31/12/2020.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
Ngày 15/3/2021, bị cáo Lê Công H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, thành khẩn nhận tội như bản án sơ thẩm đã quy kết, chỉ đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng. Xét kháng cáo của bị cáo thấy: Bị cáo phạm tội do cơ hội; sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú; bị cáo đã bồi thường đủ số tiền chiếm đoạt cho bị hại; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy mức án 24 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, nên có cơ sở giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 ; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo Lê Công H mức án từ 12 đến 15 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 07 giờ ngày 09/9/2020, tại phòng học số 3 của Trung tâm dạy nghề Thăng Long, địa chỉ: Số 6 C9 khu đô thị Mỹ Đình 1, phường C, quận N, Hà Nội, Lê Công H có hành lén lút chiếm đoạt 01 thẻ ATM Ngân hàng Sacombank của chị Trần Thị Kim Th trong thẻ có số tiền 76.796.453 đồng. Vào các ngày 10,11,12/9/2020, Hoài đã sử dụng chiếc thẻ trên để rút tiền tại cây ATM Ngân hàng Agribank, thanh toán tiền mua điện thoại chiếm đoạt tổng số tiền là 76.700.000 đồng (mất 27.500 đồng phí rút tiền), số tiền còn lại trong thẻ ATM của chị Th là 68.953 đồng. Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Công H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng.
Xét kháng cáo của bị cáo, thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội và ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn Thủ đô. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để áp dụng hình phạt tù có thời hạn và không cho bị cáo hưởng án treo là đúng. Tuy nhiên, xét bị cáo nhất thời phạm tội, phạm tội do cơ hội, khi đến lớp học thấy không có ai trong lớp, phát hiện chị Th để chiếc túi trên bàn, bị cáo đã lục túi lấy trộm 01 thẻ ATM của chị Th. Sau khi phạm tội, bị cáo ra đầu thú, tác động gia đình bồi thường đầy đủ cho bị hại; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy mức án 24 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là có phần nghiêm. Do đó, có cơ sở giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm không cho bị cáo được hưởng án treo là đúng. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo.
Về án phí: Bị cáo được chấp nhận một phần kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm, xử:
Áp dụng: Điểm c Khoản 2 Điều 173 Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015:
- Xử phạt bị cáo Lê Công H 15 (mười lăm) tháng tù về tội ‘‘Trộm cắp tài sản“, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đầu thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ tạm giam từ ngày 05/10/2020 đến ngày 31/12/2020.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH 12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Lê Công H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 18/5/2021.
Bản án 357/2021/HS-PT ngày 18/05/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 357/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về