Bản án 356/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 356/2020/HS-ST NGÀY 21/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 21/12/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xét xử sơ T công khai vụ án hình sự thụ lý số: 417/2020/HSST ngày 01 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 383/2020/QĐXX-ST ngày 02 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn T - Sinh năm 197X; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú: Xóm 21, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; Nơi ở: Không cố định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 03/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Họ tên bố: Phạm Văn T (đã chết); Họ tên mẹ: Ngô Thị C (đã chết); Gia đình có bảy anh em, bị cáo là con thứ ba; Danh chỉ bản số: 461 lập ngày 25/09/2020 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp.

Tiền án: Không; Tiền sự: Năm 1998 bị Công an quận Hoàn Kiếm xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc.

Bị bắt quả tang ngày 24/9/2020. Tạm giữ ngày 24/9/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội.

(Có mặt tại phiên toà).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan : Chị Tống Thị T – Sinh năm: 197X; HKTT: Xóm 21, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; Nơi ở: Dốc 421 phố Đ, phường C, quận Đ, Hà Nội. (Có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17h30’ ngày 24/09/2020, Tổ công tác công an phường Đ đang làm nhiệm vụ tại khu vực ngã ba L – Y, phường Đ, quận H, Hà Nội phát hiện Phạm Văn T điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen – vàng BKS 18F1-197.05 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, T đã tự nguyện giao nộp cho Công an 02 gói nilong màu hồng bên trong chứa chất bột màu trắng, T để trong lòng bàn tay trái. Tại chỗ, T khai nhận là ma túy Heroine mua để sử dụng. Tổ công tác đã niêm phong tang vật và đưa đối tượng về trụ sở để giải quyết. Ngoài ra, Tổ công tác còn thu giữ của T 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen – vàng BKS 18F1- 197.05; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen và số tiền 150.000 đồng.

Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Hai Bà Trưng đã Quyết định trưng cầu giám định đối với số ma túy thu giữ của Phạm Văn T.

Tại bản Kết luận giám định số 8632/KLGĐ-PC09 ngày 02/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội đã kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 gói nilong màu hồng, kích thước mỗi gói (02x02)cm đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,817 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Văn T khai nhận: Khoảng 16h40 ngày 24/09/2020 T sử dụng số điện thoại 0862043722 gọi vào số điện thoại 0984712468 của một người phụ nữ tên P (thường gọi là P) để hỏi mua 1.000.000 đồng tiền ma túy Heroin. P đồng ý và hẹn khoảng 17h00 cùng ngày đến nhà P ở số 121 ngõ 424 phố T, phường Đ, quận H, Hà Nội để giao dịch. T điều khiển xe máy đến gặp P ở khu vực trước cửa và đưa cho P số tiền 1.000.000đ để mua ma túy. T thấy P đi vào nhà và lấy từ trên giá gỗ phía sau cửa nhà 02 gói nilong màu hồng chứa ma túy Heroin rồi đưa cho T. Sau khi mua được ma túy, T cầm trong lòng bàn tay trái rồi tiếp tục điều khiển xe máy đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 17h30 cùng ngày, khi T đi đến khu vực ngã ba L – Y, phường Đ, quận H, Hà Nội thì bị cơ quan công an kiểm tra, bắt giữ như trên.

Cơ quan điều tra đã tiến hành dẫn giải Phạm Văn T xác định địa điểm mua ma túy và người bán ma túy. Kết quả T xác định được địa điểm mua ma túy là số 121 ngõ 424 phố T, phường Đ, quận H, Hà Nội nhưng không xác định được người bán.

Tiến hành cho T nhận dạng người phụ nữ bán ma túy cho T vào ngày 24/09/2020, kết quả: T nhận ra người phụ nữ có tên là Phan Thị P (SN 197X, HKTT: Số 8B, ngõ 307 phố B, phường M, quận H, Hà Nội; Nơi ở: Số 121 ngõ 424 phố T, phường Đ, quận H, Hà Nội) là người bán ma túy.

Cơ quan CSĐT – Công an quận Hai Bà Trưng đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phan Thị P tại số 121 ngõ 424 phố T, phường Đ, quận H, Hà Nội, kết quả không phát hiện, thu giữ gì.

Kết quả thu giữ điện tín đối với số điện thoại 0984712468, xác định chủ thuê bao là Trần Đức H (SN 199X; Nơi cư trú: Số 8B ngõ 307 phố B, phường M, quận H, Hà Nội). Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, hiện H đã bỏ đi khỏi nơi cư trú, không rõ nơi ở hiện nay.

Xác minh tại Công an phường Đ: Phan Thị P có đăng ký hộ khẩu tại số 121 ngõ 424 phố T, phường Đ, quận H, Hà Nội nhưng hiện P vắng mặt tại nơi cư trú, địa phương không rõ P ở đâu. Do vậy ngày 27/11/2020, Cơ quan CSĐT – Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định tách toàn bộ tài liệu liên quan Phan Thị P và Trần Đức H để xác minh, làm rõ sau.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen thu giữ của T, quá trình điều tra xác định T sử dụng để liên lạc mua ma túy.

Đối với 01 (một) xe máy màu đen – vàng nhãn hiệu Honda Wave BKS 18F1- 197.05. Quá trình điều tra xác định đứng tên đăng ký xe là Phạm Văn T. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra, T khai chị Tống Thị T – là vợ T chính là người mua chiếc xe trên rồi nhờ T đi làm thủ tục đăng ký xe và đứng tên chủ sở hữu. Ngày 20/09/2020, T mượn xe của vợ nhưng không nói để đi mua ma túy. Lời khai của chị T phù hợp với lời khai của T.

Đối với số tiền 150.000 đồng thu giữ của T, quá trình điều tra xác định là tài sản cá nhân của T, không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại bản Cáo trạng số 399/CT-VKSHBT-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng - Thành phố Hà Nội đã truy tố Phạm Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà :

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trong quá trình điều tra và nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan- chị Tống Thị T trình bày: Chị là vợ của bị cáo Phạm Văn T, có đăng ký kết hôn năm 199X. Năm 201X do cần phương tiện đi lại nên chị có mua 01 xe máy màu đen – vàng nhãn hiệu Honda Wave, sau khi mua xe do chị bị ốm dài ngày nên chị có nhờ chồng đi làm hộ thủ tục đăng ký xe máy, vì vậy đăng ký xe BKS 18F1-197.05 đứng tên Phạm Văn T, tiền mua xe máy do chị đi làm tiết kiệm có được. Sau đó chị ra Hà Nội làm nghề nhặt rác bán đồng nát và ở thuê nhà trọ cùng chị gái tại dốc 241 phố Đ, Hà Nội. Còn chồng chị ở nhiều nơi không cố định. Ngày 20/09/2020, T mượn xe của vợ nói đi có việc, việc T đi mua ma túy và tàng trữ ma túy trong người, chị hoàn toàn không biết và không có liên quan gì đến việc T vi phạm pháp luật. Chị T xác định chiếc xe máy trên là tài sản cá nhân của chị do chị mua, quản lý, sử dụng và giữ giấy tờ xe. Chị T có nguyện vọng mong HĐXX xem xét trả lại chiếc xe máy trên cho chị có phương tiện để đi lại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Hai Bà Trưng giữ quan điểm truy tố với Phạm Văn T như tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản Cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đánh giá mức độ phạm tội, xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 24 đến 30 tháng tù; Tịch thu tiêu huỷ 02 gói nilong màu hồng là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,817 gam. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen thu giữ của bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua ma túy. Trả lại bị cáo số tiền 150.000 đồng vì là tài sản cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội. Trả lại chị Tống Thị T 01 chiếc xe máy màu đen – vàng nhãn hiệu Honda Wave, BKS 18F1-197.05.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được T tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về T quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, bằng vật chứng thu giữ của bị cáo, qua giám định là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,817 gam cùng các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17h30’ ngày 24/09/2020, tại khu vực ngã ba L – Y, phường Đ, quận H, Hà Nội, Phạm Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,817 gam ma túy loại Heroine với mục đích sử dụng. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội danh và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm an ninh trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện làm huỷ hoại sức khoẻ con người, làm sói mòn đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ mua bán ma tuý và ma tuý cũng là nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự khác. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.

[4] Về nhân thân của bị cáo: Không có tiền án, có 01 tiền sự năm 1998 bị Công an quận Hoàn Kiếm xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Khi áp dụng hình phạt, Hội đồng xét xử đã xem xét, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu, nhân thân không có tiền án, có 01 tiền sự đã hết thời hiệu, lượng ma túy bị cáo tàng trữ không quá nhiều, do vậy Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ 02 gói nilong màu hồng đều là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,817 gam thu giữ của bị cáo là chất gây nghiện bị cấm lưu hành theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen thu giữ của bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua ma túy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại bị cáo số tiền 150.000 đồng vì là tài sản cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại chị Tống Thị T 01 chiếc xe máy màu đen – vàng nhãn hiệu Honda Wave, BKS 18F1-197.05 theo quy định tại điểm a,b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho T: Cơ quan điều tra đã tiến hành dẫn giải T xác định địa điểm mua ma túy và người bán ma túy. Kết quả T xác định được địa điểm mua ma túy là số 121 ngõ 424 phố T, phường Đ, quận H, Hà Nội nhưng không xác định được người bán. Tiến hành cho T nhận dạng người phụ nữ bán ma túy cho T vào ngày 24/09/2020, kết quả: T nhận ra người phụ nữ có tên là Phan Thị P (SN 197X, HKTT: Số 8B, ngõ 307 phố B, phường M, quận H, Hà Nội; Nơi ở: Số 121 ngõ 424 phố T, phường Đ, quận H, Hà Nội) là người bán ma túy. Cơ quan CSĐT – Công an quận Hai Bà Trưng đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phan Thị P tại số 121 ngõ 424 phố T, quận H, Hà Nội, kết quả không phát hiện, thu giữ gì. Kết quả thu giữ điện tín đối với số điện thoại 0984712468, xác định chủ thuê bao là Trần Đức H (SN 199X; Nơi cư trú: Số 8B ngõ 307 phố B, phường M, quận H, Hà Nội). Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, hiện H đã bỏ đi khỏi nơi cư trú, không rõ nơi ở hiện nay. Xác minh tại Công an phường Đ: Phan Thị P có đăng ký hộ khẩu tại số 121 ngõ 424 phố T, phường Đ, quận H, Hà Nội nhưng hiện P vắng mặt tại nơi cư trú, địa phương không rõ P ở đâu. Do vậy ngày 27/11/2020, Cơ quan CSĐT – Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định tách toàn bộ tài liệu liên quan Phan Thị P và Trần Đức H để xác minh, làm rõ sau. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về phần bản án, quyết định liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Từ những nhận định trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố : Bị cáo Phạm Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự,

Xử phạt : Phạm Văn T: 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/9/2020.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo việc thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a,b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ 02 gói nilong ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,817 gam (01 bì giấy đã được niêm phong, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và bị cáo Phạm Văn T);

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen bị vỡ màn hình, Imeil1: 356853072086525, Imeil2: 356853072086533 bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua ma túy.

- Trả lại bị cáo số tiền 150.000 (Một trăm năm mươi nghìn) đồng là tài sản cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội.

- Trả lại chị Tống Thị T 01 (Một) xe máy màu đen – vàng – đồng nhãn hiệu Honda Wave, BKS 18F1-197.05, SK: 117889, SM: 0219137.

Tang vật trên hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng - Thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 03.12.2020, tang vật số 72/21 giữa Công an quận Hai Bà Trưng và Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng và Giấy nộp tiền vào tài khoản số 394901049415 lập ngày 02.12.2020 tại Kho bạc Nhà nước quận Hai Bà Trưng.

4. Về án phí Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và khoản 1 phần I Mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết: Bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ T.

5. Về quyền kháng cáo : Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo về phần bản án, quyết định liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 356/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:356/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về