Bản án 353/2019/HCPT ngày 13/06/2019 về khiếu kiện quyết định hành chính

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 353/2019/HCPT NGÀY 13/06/2019 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH

Ngày 13/6/2019, tại trụ sở; Tòa án nhân dân cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 39/2018/TLPT-HC ngày 17 tháng 01 năm 2018 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính”.

Do bản án hành chính sơ thẩm số 27/2017/HCST ngày 05/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 965/2019/QĐ-PT ngày 23 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:

*Người khởi kiện:

Bà Dương Thị L, sinh năm 1948. (Có mặt).

Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Bà Giảng Thu B, sinh năm 1976. (Có mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp Tr, xã Kh, huyện Tr1, tỉnh Cà Mau.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Ông Trần Quốc D và ông Đinh Thanh Tr - Luật sư; Văn phòng luật sư Thịnh Quốc – Chi nhánh Cà Mau. (Có mặt).

*Người bị kiện:

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Tr1.

Người đại diện hợp pháp: Ông Trần Tấn C – Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Tr1 (là người đại diện theo văn bản uỷ quyền ngày 06 tháng 7 năm 2017).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:

- Ông Hồ Song T, sinh năm 1979; chức vụ: Trưởng phòng tài nguyên và Môi trường huyện Tr1. (Có mặt).

- Ông Võ Thanh B, sinh năm 1968; chức vụ: Trưởng phòng tư pháp UBND huyện Tr1. (Có mặt).

2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Kh, huyện Tr1.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Triều T, sinh năm 1961 – Chủ tịch. (Có mặt).

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Công ty Đ Cà Mau. Địa chỉ: đường Tr2, Phường 5, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

 Người đại diện hợp pháp:

- Ông Huỳnh Hữu Q, sinh năm 1972; chức vụ: Giám đốc Công ty Đ Cà Mau là người đại diện theo pháp luật. (Vắng mặt).

- Ông Ngô Văn H, sinh năm 1973; chức vụ: Phó giám đốc Đ chi nhánh huyện Tr1 là người đại diện theo văn bản uỷ quyền ngày 28 tháng 8 năm 2017. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện ngày 25 tháng 5 năm 2017, đơn khởi kiện bổ sung ngày 07 tháng 6 năm 2017 và quá trình tham gia tố tụng bà Dương Thị L và người đại theo uỷ quyền là bà Giảng Thu B trình bày:

Năm 1986, khi Nhà nước làm tuyến lộ giao thông R – S, gia đình bà L đã cất nhà cặp mí lộ tại ấp Tr, xã Kh, huyện Tr1, tỉnh Cà Mau để ở và kinh doanh quán nước, tiệm tạp hoá. Do nhà làm bằng cây gỗ địa phương đã bị hư hỏng nặng nên ngày 27 tháng 02 năm 2017, bà L có làm đơn xin sửa nhà và được ông Trần Triều T - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Kh (viết tắt là Chủ tịch UBND xã Kh) tiếp nhận nhưng ông Tiên không có ý kiến phản hồi đơn của bà.

Ngày 04 tháng 4 năm 2017, căn nhà của bà L bị sập nên bà dỡ nhà bị sập ra, cặm trụ cất lại nhà. Đến ngày 05 tháng 4 năm 2017, Công an xã Kh đến lập biên bản yêu cầu ngưng thi công vì cho rằng bà xây dựng vi phạm hành lang an toàn giao thông. Cùng ngày 05 tháng 4 năm 2017, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Kh và Uỷ ban nhân dân huyện Tr1 chỉ đạo cho Đ huyện Tr1 cắt điện, không cho gia đình bà sử dụng điện cho đến nay.

Ngày 07 tháng 4 năm 2017, Chủ tịch UBND xã Kh ban hành Quyết định số 05/QĐ-XPVPHC xử phạt hành chính đối với bà số tiền là 4.500.000 đồng và buộc bà phải tháo dỡ mấy cây trụ đã cặm.

Ngày 11 tháng 5 năm 2017, Chủ tịch UBND huyện Tr1 ban hành Quyết định số 02/QĐ-CC về việc cưỡng chế Quyết định số 05/QĐ-XPVPHC ngày 07/4/2017 của Chủ tịch UBND xã Kh.

Bà L xác định tại vị trí bà cất nhà bị xử phạt vi phạm hành chính là vị trí nhà cũ của bà đã cất từ năm 1986, không nằm trong hành lang an toàn lộ giới, và cũng không cất trên kênh thuỷ lợi. Chủ tịch UBND xã Kh ra quyết định xử phạt bà là trái pháp luật, còn việc cắt điện không thông báo như vậy cũng là không đúng pháp luật làm gia đình bà bị thiệt hại nghiêm trọng.

Nay bà L yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau:

- Hủy bỏ Quyết định số 05/QĐ-XPVPHC ngày 07/4/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Kh và Quyết định số 02/QĐ-CC ngày 11/5/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tr1;

- Xác minh chứng cứ về việc nhà sau bị sập, bà L cặm trụ cất nhà lại chứ không phải cất lấn chiếm hành lang lộ giới, xác minh căn nhà hiện trạng của gia đình bà L đã hư hỏng nặng, có thể bị sập ngay không thể ở được và gia đình bà L không có chỗ ở nào khác; xác minh việc sử dụng điện, cắt điện của gia đình bà L để làm căn cứ giải quyết vụ án;

- Buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tr1 có trách nhiệm liên đới cùng Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Kh có trách nhiệm bồi thường các khoản thiệt hại, với tổng số tiền yêu cầu bồi thường là 150.632.000 đồng (Vốn kinh doanh ban đầu 20.000.000 đồng, mỗi ngày mất thu nhập là 500.000 đồng, thiệt hại xảy ra, bồi thường dừng lại không cho xây nhà: bổ sung sau) cho gia đình bà L.

*Quá trình tham gia tố tụng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Kh trình bày: Phần đất bà L cất nhà ở bị xử phạt hành chính là phần đất thuộc tuyến đê được xác lập theo bản đồ 299 đến bản đồ toạ độ là mặt nước kênh xáng đều do UBND xã đăng ký, kê khai, đây là đất do Nhà nước quản lý.

Việc xây dựng nhà trên phần đất hành lang an toàn lộ giới: Bà Thu B (là con của bà L) có trực tiếp gửi đơn, Chủ tịch UBND xã có động viên di dời về phần đất gia đình cất nhà ở để đảm bảo tài sản, tính mạng cho gia đình nhưng bà Thu B không đồng ý vì ở đó có điều kiện mua bán làm ăn. Sau ba ngày nhận đơn, UBND xã Kh có Công văn số 22/UBND-VP về việc trả lời đơn cho bà L và đã gửi cho bà L. Đồng thời, địa phương đã nhiều lần động viên gia đình di dời nhà ở nhưng bà L không hợp tác mà còn lấn chiếm 43,91m2 đất thuỷ lợi thuộc ấp Tr, xã Kh do UBND xã Kh quản lý. Đã cắm 17 trụ bê tông và hàng đà bằng ống kẽm để làm sàn trên phần đất đã lấn chiếm. Ngày 07 tháng 4 năm 2017, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Kh ban hành Quyết định số 05/QĐ-XPVPHC xử phạt hành chính đối với bà số tiền là 4.500.000 đồng và buộc bà phải tháo dỡ toàn bộ công trình đã xây cất trái phép ra khỏi vị trí vi phạm, khôi phục lại hiện trạng ban đầu của đất, trước khi vi phạm.

*Quá trình tham gia tố tụng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Tr1 trình bày: Ngày 02 tháng 4 năm 2017, bà Dương Thị L tổ chức cắm trụ bê tông trên phần kênh xáng thuộc ấp Tr, xã Kh do UBND xã Kh quản lý. Việc làm của Láng đã vi phạm Luật Đất đai và vi phạm quy hoạch giao thông đường bộ đã công bố. UBND xã Kh đã nhiều lần làm việc với bà L, vận động bà ngưng thực hiện hành vi vi phạm, tự giác chấp hành tháo dỡ công trình vi phạm trả lại hiện trạng nhưng bà không chấp hành. Do đó, UBND xã Kh đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm của bà L và ra Quyết định xử phạt hành chính như bà L trình bày.

Trong thời gian chấp hành Quyết định xử phạt, địa phương có tổ chức tuyên truyền, vận động bà L tự giác chấp hành nhưng bà vẫn không thực hiện. Do đó, UBND xã Kh đã đề xuất UBND huyện Tr1 ban hành Quyết định cưỡng chế để thi hành Quyết định số 05/QĐ-XPVPHC.

Ngày 11 tháng 5 năm 2017, Chủ tịch UBND huyện Tr1 ban hành Quyết định số 02/QĐ-CC về việc cưỡng chế Quyết định số 05/QĐ-XPVPHC ngày 07/4/2017 của Chủ tịch UBND xã Kh. Ngày 17 tháng 5 năm 2017, thực hiện việc triển khai quyết định thì bà L cố tình vắng mặt.

Từ những cơ sở trên, Chủ tịch UBND huyện Tr1 đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xem xét, giữ nguyên Quyết định số 05/QĐ-XPVPHC ngày 07/4/2017 của Chủ tịch UBND xã Kh về việc xử phạt vi phạm hành chính;

Quyết định số 02/QĐ-CC ngày 11/5/2017 của Chủ tịch UBND huyện về việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

*Quá trình tham gia tố tụng Công ty Đ Cà Mau trình bày:

Việc cắt điện là do Công ty không có ký hợp đồng mua bán điện với bà Dương Thị L, việc bà L chia hơi điện Công ty có kiểm tra hai đợt, cụ thể:

Lần 1, Ngày 05/4/2017, Công ty có cử 02 nhân viên đến Trạm kiểm ngư S kiểm tra phát hiện có cho hộ bà Dương Thị L chia hơi với mục đích sinh hoạt và có dùng điện hàn khung sắt cất nhà. Hiện trạng đường dây chia hơi loại dây nhôm đơn 30/10mm, kéo 02 sợi, khoảng cách dài khoảng trên 40 mét, không có trụ đỡ dây ở giữa, đường dây kéo dọc lộ xe, đi xuyên qua cây bạch đàn có cọ dây dẫn, độ cao thấp mất an toàn.

Như vậy, Trạm kiểm ngư S đã sử dụng điện sai mục đích, không an toàn. Vi phạm hợp đồng mua bán điện (Điều 10, khoản 10.2, mục 10.2.1 sử dụng điện đúng mục đích, đúng công suất, điện năng đã thoả thuận tại các điều khoản cụ thể của hợp đồng; mục 10.2.3 sử dụng điện an toàn tiết kiệm và hiệu quả, thực hiện các quy định về quản lý điện). Đại diện Trạm kiểm ngư S là ông Phạm Trường Hận thừa nhận và thống nhất cắt chia hơi cho hộ bà L, thu hồi đường dây chia hơi.

Lần 2, Khoảng 19 giờ ngày 12/5/2017, Công ty nhận thông tin từ ông Trần Tấn C – Phó chủ tịch UBND huyện Tr1 với nội dung hộ bà Dương Thị L đang sử dụng điện chia hơi để hàn sắt cất nhà trái phép trên phần đất Nhà nước đang quản lý, đề nghị Đ Tr1 cho kiểm tra việc dùng điện chia hơi này. Nhận được đề nghị, Công ty cử ông Nguyễn Vũ Th đến kiểm tra điện tại nhà bà Trần Thị B (người đứng tên hợp đồng là ông Huỳnh Văn H) thì không có việc cho hộ bà L chia hơi mà chỉ cho ông Út con rể ở cặp nhà bà L chia hơi. Ông Th có nhắc nhở hộ bà Trần Thị B không cho hộ bà Dương Thị L chia hơi điện để hàn khung sắt sàn nhà xây dựng nhà trái phép trên phần đất do Nhà nước quản lý theo yêu cầu của UBND huyện Tr1.

Việc đề nghị Trạm kiểm ngư S cắt điện chia hơi cho hộ bà Dương Thị L là do Trạm kiểm ngư S đã vi phạm hợp đồng mua bán điện là sử dụng điện sai mục đích và không đảm bảo an toàn. Đ Tr1 không có ký hợp đồng mua bán điện với bà Dương Thị L nên không có liên quan, do đó không có nghĩa vụ bồi thường.

* Tại bản án hành chính sơ thẩm số 27/2017/HCST ngày 05/12/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã QUYẾT ĐỊNH

1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị L về việc hủy các Quyết định xử phạt hành chính số 05/QĐ-XPVPHC ngày 07/4/2017 của Chủ tịch UBND xã Kh, Quyết định cưỡng chế số 02/QĐ-CC ngày 11/5/2017 của Chủ tịch UBND huyện Tr1 và yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền 200.720.000 đồng.

2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu buộc Công ty Đ Cà Mau phải bồi thường số tiền 30.000.000 đồng. Ngoài ra bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 01/12/2017, bà Dương Thị L có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

*Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; yêu cầu hủy Quyết định số 05/QĐ-XPVPHC ngày 07/4/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Kh và Quyết định số 02/QĐ-CC ngày 11/5/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tr1 (Quyết định số 05 và Quyết định số 02), buộc người bị kiện bồi thường thiệt hại do quyết định trái pháp luật gây ra tổng số tiền là 200.720.000 đồng (tăng so với yêu cầu khởi kiện ban đầu do có phần thiệt hại mất thu nhập).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện hủy Quyết định số 05 và Quyết định số 02, buộc người bị kiện bồi thường tổng thiệt hại là 200.720.000 đồng.

- Người bị kiện cho rằng việc ban hành quyết định xử phạt và quyết định cưỡng chế là đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện.

- Đại diện cho Công ty Đ Cà Mau bảo lưu quan điểm trước đây. Vì cho rằng Đ Tr1 không có ký hợp đồng mua bán điện với bà Dương Thị L nên không có nghĩa vụ bồi thường.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến: Trong quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử; các đương sự chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng hành chính. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bà Dương Thị L về việc yêu cầu hủy Quyết định số 05 và Quyết định số 02, buộc người bị kiện bồi thường thiệt hại với số tiền 200.720.000 đồng; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và của những người tham gia tố tụng.

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Dương Thị L trong thời hạn quy định của pháp luật nên kháng cáo hợp lệ.

[2] Về thẩm quyền xét xử vụ án: Người khởi kiện yêu cầu hủy các Quyết định số 05 và Quyết định số 02; yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyết định xử phạt hành chính gây ra thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 30 và Điều 32 Luật Tố tụng hành chính.

[3] Về thời hiệu khởi kiện: Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính thì thời hiệu khởi kiện các Quyết định nêu trên vẫn còn.

[4] Đánh giá tính hợp pháp và tính có căn cứ của các Quyết định hành chính bị khởi kiện:

* Đối với Quyết định số 05, thấy rằng:

- Về Thẩm quyền ban hành: Quyết định số 05/QĐ-XPVPHC ngày 07/4/2017 được Chủ tịch UBND xã Kh, huyện Tr1 ký ban hành là đúng thẩm quyền xử phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 38 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

 đai.

- Về nội dung Quyết định số 05 v/v Xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất Xét về nguồn gốc phần đất thể hiện tại Trích đo hiện trạng ngày 29/9/2017 (BL 257, theo yêu cầu đo đạc của người khởi kiện) thì phần đất có diện tích 188m2 (Trong đó có 02 căn nhà tạm diện tích 146,40m2, sàn trụ bê tông diện tích 41,60m2), toàn bộ diện tích đất này thuộc loại đất giao thông, nằm trong lộ giới an toàn giao thông đường bộ.

Theo Quyết định số 818/QĐ-UBND ngày 03/6/2013 của Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải tỉnh Cà Mau đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 thì phần đất (kinh xáng) bà L đang cắm trụ bê tông (đang bị xử phạt) thuộc quy hoạch đất giao thông đường bộ (tuyến đường Tắc Thủ - R- S, BL 17).

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày nguồn gốc phần đất là do gia đình khai phá từ năm 1980, đã ở và kinh doanh đến nay. Tuy nhiên, phía Luật sư và đại diện người khởi kiện cũng thừa nhận hiện nay phần đất này không có giấy tờ gì chứng minh đã được Nhà nước giao đất hợp pháp.

Theo quy định tại Điều 4 Luật Đất đai: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng…” Như vậy, bà L chưa được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hợp pháp do đó việc bà yêu cầu bảo hộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là không được chấp nhận.

Việc bà L tự cắm trụ bê tông để làm sàn xây nhà là vi phạm khoản 1, khoản 2 Điều 12 của Luật Đất đai về hành vi lấn, chiếm đất, vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Vì vậy, Chủ tịch UBND xã Kh ban hành Quyết định số 05 để xử phạt hành chính bà L trong lĩnh vực đất đai được quy định tại Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật.

* Đối với Quyết định số 02 v/v cưỡng chế để thi hành Quyết định số 05 là đúng trình tự, thủ tục ban hành đúng các quy định tại Điều 71 của Luật Đất đai.

Về nội dung cưỡng chế: Do Quyết định xử phạt hành chính số 05 đối với bà L là đúng quy định nên Quyết định số 02 cưỡng chế để thi hành Quyết định số 05 là phù hợp quy định của phấp luật.

[5] Từ phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện đề nghị hủy các Quyết định số 05 và Quyết định số 02 là có căn cứ. Tại phiên tòa, người khởi kiện kháng cáo nhưng không cung cấp thêm được tình tiết nào mới so với cấp sơ thẩm nên kháng cáo của người khởi kiện không được HĐXX chấp nhận.

Kết luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện là có căn cứ được HĐXX chấp nhận.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[6] Về án phí hành chính sơ thẩm và phúc thẩm: Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án thì bà L là người cao tuổi nên được miễn nộp.

Vì các lẽ trên,

 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính;

Căn cứ Điều 32 của Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

1. Bác kháng cáo của người khởi kiện. Giữ nguyên quyết định của bản án hành chính sơ thẩm số số 27/2017/HCST ngày 05/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

3. Về án phí hành chính sơ thẩm và phúc thẩm: Bà Dương Thị L không phải nộp.

Hoàn lại cho bà Dương Thị L số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí sơ thẩm theo biên lai thu số 001113 ngày 08/6/2017; và 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số 001228 ngày 12/12/2017 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau.

4. Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

845
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 353/2019/HCPT ngày 13/06/2019 về khiếu kiện quyết định hành chính

Số hiệu:353/2019/HCPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về