TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 353/2018/HS-ST NGÀY 10/10/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 10 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 474/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3956/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:
Lê Tấn P (tên gọi khác Hồ), sinh ngày 20 tháng 7 năm 1976, tại tỉnh Tây N; HKTT: ấp Giồng T, xã Bình M, thành phố Tây N, tỉnh Tây N;
Chỗ ở hiện nay: 29/11K tổ 21, ấp Đông L, xã Bà Đ, huyện Hóc 2, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Cao Đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Tấn T và bà Phạm Thị T1; có vợ là Nguyễn Thị Tuyết N1 và 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân:
- Ngày 16/5/2002, bị Tòa án nhân dân thị xã Tây N, tỉnh Tây N xử phạt 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân” (Bản án số 33/ST-HS);
- Ngày 12/11/2008, bị Tòa án nhân dân thị xã Tây N, tỉnh Tây N xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 150/2008/HSST); Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 27/3/2017 (Có mặt).
Bị hại:
Nguyễn Quang V (chết)
Người đại diện hợp pháp của bị hại:
- Bà Vương Thị M1, sinh năm 1955 (có đơn xin vắng mặt)
HKTT: Số 5, tổ 21, Thanh A, phường Thượng T2, quận Long B, thành phố Hà Nội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Ôn Văn S, sinh năm 1986 (vắng mặt)
Địa chỉ: 45/313A Phan Huy I, Phường 12, quận Gò V, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bà Phạm Thị H, sinh năm 1980 (vắng mặt)
Địa chỉ: 29/11X ấp Đông L, xã Bà Đ, huyện Hóc M2, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bà Nguyễn Thị Minh H1, sinh năm 1980 (vắng mặt)
Địa chỉ: 206 lô E chung cư KCN Sơn K, phường Sơn K, quận Tân P, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 9/2016, Lê Tấn P vay của Nguyễn Quang V số tiền 1.000.000 đồng, mỗi ngày trả tiền lãi 20.000 đồng (60%/01 tháng). Khoảng19 giờ ngày 15/11/2016, P đi làm về phòng trọ tại số 29/11K Tổ 21, ấp Đông L, xã Bà Đ, huyện Hóc M2. Khi đi ngang quán cà phê của chị Phạm Thị H tại số 29/11X ấp Đông L, xã Bà Đ, huyện Hóc M2 (cách nhà trọ của P khoảng 5 mét), chị H yêu cầu P trả 40.000 đồng tiền nước còn nợ nhưng P không có tiền trả. Lúc này, Nguyễn Quang V chạy xe gắn máy hiệu Honda Airblade biển số 59D1-699.90 đến quán, gặp P, V yêu cầu P trả tiền nợ 1.000.000 đồng, P nói không có tiền nên xảy ra cự cãi xô xát đánh nhau bằng tay. P chạy về phòng trọ của mình lấy 01 con dao tự chế (dài khoảng 65cm, lưỡi dao dài khoảng 50 cm, mũi dao hơi bầu, lưỡi dao bản rộng khoảng 7-8cm) quay lại quán. V nhìn thấy P cầm dao nên chạy vào quán chị H lấy một baga bằng sắt cầm trên tay thủ thế. P đến đứng đối diện cách V khoảng 02 mét và nói: “Mày tin tao chém mày không”, V trả lời: “Mày muốn chém thì mày chém đi”. Nghe vậy, P cầm dao tay phải (mũi dao hướng ngón tay cái) chém ngang từ phải sang trái khoảng 2-3 cái về phía hông trái và ngực của V. V dùng baga đỡ được nên không trúng.
Thấy vậy, P cúi thấp người đâm thẳng 01 cái trúng đùi phải của V, V bị đâm chảy nhiều máu nên đi lùi về phòng trọ của V (gần quán cà phê chị H), lấy điện thoại di động ra cầm trên tay, tay kia vẫn cầm baga sắt và nói với P: “Mày có ngon thì đứng đó chờ tao.” và đưa điện thoại lên nói “Tụi bây đến đây”. P nghe vậy nên cầm dao bỏ chạy về phòng trọ của mình, khóa cửa lại, sau đó bỏ trốn và vứt dao ở dải phân cách gần bên xe An Sương, Quận 12 (đã chỉ điểm nhưng không thu hồi được). Còn V đi bộ về phòng trọ của mình kêu cửa thì anh Ôn Văn S ở cùng phòng trọ đang cầm 01 con dao (dài 33cm) gọt trái cây chạy ra mở cửa, nhìn thấy V bị thương chảy máu nhiều nên S ném con dao xuống nền nhà và đưa V đi cấp cứu tại Bệnh viện Hóc M2 nhưng đã chết trước khi nhập viện lúc 20 giờ 15 phút cùng ngày.
Ngày 27/3/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Thành phố Tây N, tỉnh Tây N bắt Lê Tấn P theo quyết định truy nã. Tại Cơ quan điều tra, Lê Tấn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 03-17/KLGĐ-PY ngày 06/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định pháp y tử thi Nguyễn Quang V như sau: “Nguyễn Quang V chết do sốc mất máu không hồi phục do vết thương đâm đứt động mạch đùiphải. Trong máu không tìm thấy cồn và các chất ma túy thường gặp. Máu củaNguyễn Quang V thuộc nhóm máu O.”
Tại Công văn số 497/CV - PC54 - Đ4 ngày 26/5/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh giải thích như sau:
“- Vết thương ở mặt trước ngoài đoạn 1/3 giữa đùi phải dạng hình bầu dục, bờ mép sắc nhọn, kích thước 3cmx1,4cm. Vết thương xuyên vào trong 8cm, theo chiều hướng từ trước ra sau, từ phải sang trái, từ dưới lên trên làm thủng cơ trước đùi phải, đứt rời động mạch đùi phải. Vết thương do vật sắc nhọn gây ra theo cơ chế đâm.
Nhận định: Con dao như mô tả trong công văn (dài khoảng 65cm, cán dao dài khoảng 15cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài khoảng 50cm, lưỡi dao bản rộng khoảng 7-8cm, mũi dao hơi bầu) có thể gây ra được vết thương nêu trên.”
Tại Bản kết luận giám định số 112-17/KLGĐ-SV ngày 20/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định dấu vết trên vật chứng thu giữ trong vụ án như sau:
“- Mẫu máu hiện trường: Là máu người, nhóm máu O, cùng nhóm máu với mẫu máu ghi thu của Nguyễn Quang V.
- Con dao (dài 33cm): Một số chấm màu nâu vàng dính trên lưỡi dao là máu người, dấu vết ít không xác định được nhóm máu.
- Điện thoại di động: Chất sậm màu dính rải rác trên điện thoại di động không đảm bảo chất lượng để xác định là máu người hay không.
- Nón bảo hiểm: Vệt màu nâu vàng dính phía ngoài nón là máu người, nhóm máu O, cùng nhóm máu với mẫu máu ghi thu của Nguyễn Quang V.
- Đôi giày: Chất màu nâu đỏ dính trên đôi giày là máu người, nhóm máuO, cùng nhóm máu với mẫu máu ghi thu của Nguyễn Quang V.
- Baga sắt: Vết màu nâu sậm dính rải rác trên baga là máu người, nhóm máu O, cùng nhóm máu với mẫu máu ghi thu của Nguyễn Quang V.
Tại công văn số 558/CV - PC54 - Đ4 ngày 06/7/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh trả lời như sau: “Với vết thương ở mặt trước ngoài đoạn 1/3 giữa đùi phải của nạn nhân Nguyễn Quang V, nếu được sơ cứu băng bó vết thương và đưa đi bệnh viện cấp cứu kịp thời thì nạn nhân có khả năng sống sót. Việc nạn nhân không được sơ cứu băng bó vết thương và đưa đến bệnh viện trong thời gian 45 phút dẫn đến sự chết cho nạn nhân.”
Vật chứng vụ án:
- 01 mẫu gạc máu của nạn nhân Nguyễn Quang V;
- 02 mẫu gạc máu thu tại hiện trường;
- 01 xe hai bánh gắn máy; Nhãn hiệu: Honda; Loại xe: 02 bánh; Số loại: Airblade; BS: 59D1-699.90; SK: RLJF1807AY056954 (sét mờ, ghi theo số cà); SM: JF27E-0058188. Theo kết luận giám định số 6880/KLGĐ – X (Đ3) ngày 07/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh, xe trên có số khung, số máy nguyên thủy, không thay đổi. Xe trên do bà Nguyễn Thị Minh H1, ngụ tại số 206 lô E chung cư Sơn Kỳ, phường Sơn Kỳ, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, đứng tên đăng ký. Hiện nay bà H1 bán nhà đi đâu không rõ. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Hóc M2 đã đăng báo tìm chủ sở hữu xe nhưng đến nay chưa có kết quả;
- 01 giấy phép lái xe và 01 CMND mang tên Nguyễn Quang V;
- 01 điện thoại di động, 01 đôi giày dính máu, 01 nón bảo hiểm màu trắng của Nguyễn Quang V;
- 01 thẻ ngành CAND số 281-680 mang tên Nguyễn Quang Vinh (qua xác minh giấy chứng nhận CAND là giả);
- 01 con dao dài 33cm (do Ôn Văn S ném trước phòng trọ);
- 01 baga sắt (của chị Phạm Thị H).
Về trách nhiệm dân sự: Bà Vương Thị M1 (mẹ ruột của Nguyễn Quang V) yêu cầu bồi thường tổng chi phí mai táng là 102.080.000 đồng, thiệt hại về tổn thất tinh thần là 130.000.000 đồng, tổng cộng là 232.080.000 đồng.
Tại Bản cáo trạng số 328/CT-VKS- P2 ngày 09/8/2018 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Tấn P về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội và đề nghị:
Áp dụng khoản 3 Điều 104, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009);
Xử phạt bị cáo Lê Tấn P từ 12 đến 14 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo bồi thường cho gia đình bị hại. Và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
* Bị cáo Lê Tấn P thừa nhận hành vi phạm tội; đồng ý bồi thường cho gia đình bị hại là 232.080.000 đồng và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:
Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Đánh giá hành vi của các bị cáo:
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng đã thu giữ, phù hợp với kết luận giám định pháp y và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Vào khoảng 19 giờ ngày 15/11/2016 tại địa chỉ số 29/11K, tổ 21, ấp Đông L, xã Bà Đ, huyện Hóc M2, bị cáo P đã có hành vi cầm dao tự chế dài khoảng 65cm, lưỡi dao khoảng 50cm, lưỡi dao bản rộng khoảng 7-8cm đứng đối diện bị hại thách thức đánh nhau. Khi bị hại thách thức thì bị cáo đã cầm dao chém 2-3 nhát vào hông trái và ngực của bị hại nhưng bị hại cầm baga sắt chống đỡ nên không trúng. P cúi xuống đâm một nhát trúng đùi V làm chảy máu. Sau đó do không được đưa đi cấp cứu kịp thời nên bị hại đã chết do sốc mất máu không hồi phục do vết thương đâm đứt động mạch đùi phải. Bị cáo ý thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý gây thương tích cho bị hại, dẫn đến hậu quả chết người. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo P phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là chết người, hành vi của bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc để giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
[3] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
Bà Vương Thị M1 yêu cầu bồi thường số tiền là 232.080.000 đồng, bị cáo tự nguyện đồng ý bồi thường số tiền nêu trên. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận.
[4] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 03 mẫu gạc máu; 01 đôi giày; 01 nón bảo hiểm trắng; 01 thẻ ngành Công an nhân dân mang tên Nguyễn Quang Vinh (giả) 01 Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Quang Vinh, 01 CMND mang tên Nguyễn Quang V,
01 con dao dài 33 cm, 01 baga sắt, là vật chứng không có giá trị, không sửdụng được. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu và tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động (bể nát hư hỏng) là tài sản của bị hại, không phải là vật chứng. Do đó, căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trả lại cho bà Vương Thị M1 - đại diện hợp pháp của bị hại.
- Đối với 01 xe hai bánh gắn máy; Nhãn hiệu: Honda; Loại xe: 02 bánh; Số loại: Airblade; BS: 59D1-699.90; SK: RLJF1807AY056954 (sét mờ, ghi theo số cà); SM: JF27E-0058188. Bà Nguyễn Thị Minh H1 là người đứng tên đăng ký sở hữu chiếc xe trên nhưng hiện nay đã bán nhà đi đâu không rõ. Do đó, Hội đồng xét xử xét cần phải đăng thông tin chiếc xe trên lên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng để tìm chủ sở hữu. Nếu sau thời hạn 06 tháng mà không có chủ sở hữu đến nhận thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo: Tại Cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng bị cáo có nhân thân xấu, đã 02 lần phạm tội và đã bị xử phạt. Lần này bị cáo sau khi gây ra vụ án cũng đã bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã. Tuy đây không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng cũng cần phải có một hình phạt nghiêm khắc mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng và 11.604.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1/ Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Lê Tấn P phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2/ Về hình phạt:
Áp dụng khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt: Bị cáo Lê Tấn P 11 (mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/3/2017.
3/ Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
Áp dụng Điều 468, 585, 586 và 591 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ghi nhận việc bị cáo Lê Tấn P tự nguyện bồi thường cho bà Vương Thị M1 – đại diện hợp pháp của bị hại số tiền là 232.080.000 (hai trăm ba mươi hai triệu không trăm tám chục nghìn) đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án chậm thực hiện việc trả số tiền nêu trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả thêm tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
4/ Về xử lý vật chứng:
Áp dụng điểm b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
* Tịch thu và tiêu hủy:
+ 03 mẫu gạc máu;
+ 01 con dao dài 33 cm;
+ 01 baga sắt;
+ 01 đôi giày;
+ 01 nón bảo hiểm màu trắng;
+ 01 Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Quang Vinh;
+ 01 thẻ ngành Công an nhân dân mang tên Nguyễn Quang Vinh;
+ 01 CMND mang tên Nguyễn Quang V;
* Trả lại cho bà Vương Thị M1:
+ 01 điện thoại di động (bể nát hư hỏng);
* Đăng thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 (sáu) tháng đối với 01 xe hai bánh gắn máy; Nhãn hiệu: Honda; Loại xe: 02 bánh; Số loại: Airblade; BS: 59D1-699.90; SK: RLJF1807AY056954 (sét mờ, ghi theo số cà); SM: JF27E-0058188 (ghi theo số cà) để tìm chủ sở hữu. Nếu hết thời hạn 06 (sáu) tháng mà không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.
(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 348/17 ngày 10/8/2017 của CụcThi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).
5/ Về án phí:
Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 13/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 11.604.000 (Mười một triệu sáu trăm lẻ bốn nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6/ Về quyền kháng cáo:
Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Bị cáo Lê Tấn P được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 353/2018/HS-ST ngày 10/10/2018 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 353/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về