Bản án 352/2020/HS-PT ngày 31/07/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 352/2020/HS-PT NGÀY 31/07/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 231/2020/TLPT-HS ngày 12 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo Phan Hữu T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 33/2020/HS-ST ngày 04 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Phan Hữu T; Sinh năm 1988 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Thường trú: 15/9 Nguyễn T, Phường B, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 221 HMĐ, Phường G, Quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm công; Học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Hữu Đ và bà Lê Thị A; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Bản án số 42/2017/HSST ngày 09/5/2017, bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt 18 (mười tám) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (đã chấp hành xong tháng 4/2018).

Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 24/02/2017, Phan Hữu T sử dụng số điện thoại 0938514130 gọi vào số điện thoại 0968.828882 của cửa hàng mua bán nước hoa tên Shop P, địa chỉ: 59A CT, Phường C, Quận C để đặt mua qua mạng 01 chai nước hoa hiệu Chanel Coco Noir EDP 100ml và 01 chai hiệu Chanel Allure Homeme Sport 100ml với tổng số tiền là 5.250.000 đồng. T đề nghị giao hàng và nhận tiền tại trụ sở Ủy ban nhân dân Phường 3, Quận 5, địa chỉ 130 Nguyễn Trãi, Phường 3, Quận 5. Bà Nguyễn Thị Thu T là nhân viên của Shop P nhận được đơn hàng từ T rồi báo lại cho ông Lê Thành V là chủ cửa hàng biết và ông V đồng ý viết phiếu hàng đưa cho nhân viên bảo vệ là ông Nguyễn Ngọc H để đi giao hàng. Khi ông H đến trước trụ sở Ủy ban nhân dân Phường 3, Quận 5 thì gặp và giao 02 chai nước hoa trên cho T. T nói ông H đứng đợi rồi đi vào bên trong trụ sở Ủy ban nhân dân Phường 3, Quận 5. Ông H đợi lâu không thấy nên gọi điện cho T, T nghe máy và nói với ông H đi lên phòng Kế toán của Ủy ban nhân dân Phường 3, Quận 5 để lấy tiền. Ông H tin tưởng nên đi vào trụ sở Ủy ban nhân dân Phường 3, Quận 5 thì được nhân viên Ủy ban nhân dân Phường 3 trả lời không có ai đặt mua nước hoa. Ông H nghĩ mình bị lừa nên về báo lại cho cửa hàng biết vụ việc.

Sau khi chiếm đoạt được 02 chai nước hoa và lợi dụng lúc ông H đi vào trụ sở Ủy ban nhân dân Phường 3, Quận 5. T lén đi ra khỏi trụ sở rồi chạy xe gắn máy hiệu Attila biển số 64H4-6314 đến Shop H trên đường BC Phường C, Quận C bán lại chai nước hoa hiệu Chanel Allure Homeme Sport 100ml cho bà Ông Tuyết H được 1.600.000 đồng.

Riêng chai nước hoa hiệu Chanel Coco Noir EDP 100ml thì bà H không mua nên T tiếp tục đi tìm cửa hàng để bán. Do mua 02 chai nước hoa trên mạng nên T không biết địa chỉ của Shop P. T đến đúng cửa hàng Shop P 59A CT, Phường C, Quận C để bán chai nước hoa trên cho bà T. Bà T và ông V phát hiện chai nước hoa mà T hỏi bán chính là chai nước hoa mà T đã lừa để chiếm đoạt nên bà T và ông V trình báo vụ việc đến Công an Phường 3, Quận 3.

Ngoài ra, với thủ đoạn tương tự, Phan Hữu T còn thực hiện 04 vụ lừa đảo khác tại địa chỉ hẻm số 63 Ngô Quyền, Phường 11, Quận 5, cụ thể như sau:

Vào ngày 07/3/2016 lừa đảo chiếm đoạt 01 điện thoại hiệu LG G3 của một người đàn ông tên T (không rõ lai lịch, địa chỉ).

Vào ngày 19/3/2016 lừa đảo chiếm đoạt 01 điện thoại hiệu SamSung S6 Edge của ông Nguyễn Mạnh H.

Vào 11/02/2017 lừa đảo chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu SKY A910 và 01 điện thoại LG G3 CAT6 của ông Trần Văn Vũ Kh.

Vào ngày 11/02/2017 lừa đảo chiếm đoạt 02 đồng hồ đeo tay hiệu Daniel Wellington của bà Huỳnh Trắc Diệp Trúc L Tại bản kết quả định giá tài sản số 106/HĐĐG ngày 28/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 5 có kết quả như sau:

Chai nước hoa hiệu Chanel Coco Noir EDP 100ml, chưa qua sử dụng, tỷ lệ mới 100%, giá 2.800.000 đồng/ chai (Hai triệu tám trăm nghìn đồng).

Chai nước hoa hiệu Chanel Allure Homme Sport 100ml, chưa qua sử dụng, tỷ lệ mới 100%, giá 2.450.000 đồng/ chai (Hai triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

Tổng giá trị tài sản định giá là 2.800.000 đồng + 2.450.000 đồng = 5.250.000 đồng.

Tại bản kết quả định giá tài sản số 09/HĐĐG ngày 13/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 5 có kết quả như sau:

Điện thoại di động hiệu Sky-910L, đã qua sử dụng, tỷ lệ mới 80%, giá 900.000 đồng/chiếc (chín trăm nghìn đồng).

Điện thoại di động hiệu LG G3 CAT 6, đã qua sử dụng, tỷ lệ mới 80%, giá 900.000 đồng/chiếc (chín trăm nghìn đồng).

Điện thoại di động hiệu LG G3, đã qua sử dụng, tỷ lệ mới 80%, giá 900.000 đồng/chiếc (chín trăm nghìn đồng).

Điện thoại di động hiệu Samsung S6 EDGE màu gold, đã qua sử dụng, tỷ lệ mới 80%, giá 2.000.000 đồng/chiếc (Hai triệu đồng).

Đối với tài sản định giá là 02 đồng hồ hiệu Daniel Wellington, dây da, đã qua sử dụng, do không có hóa đơn chứng từ nên Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự của Quận 5 không tiến hành định giá.

Tổng trị giá tài sản định giá là 900.000 đồng + 900.000 đồng + 900.000 đồng + 2.000.000 đồng = 4.700.000 đồng (Bốn triệu bảy trăm nghìn đồng).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 33/2020/HS-ST ngày 04 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã Quyết định:

Tuyên bố bị cáo Phan Hữu T phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ Khoản 1, Khoản 5 Điều 139; điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46; điểm g Khoản 1 Điều 48; Điều 33; Điều 45 Bộ luật Hình sự 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009,; điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.

Xử phạt bị cáo Phan Hữu T 03 (ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Buộc bị cáo Phan Hữu T nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) để nộp sung ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Ngày 15/5/2020, bị cáo Phan Hữu T có đơn kháng cáo giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Tài giữ nguyên nội dung kháng cáo như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tội danh và mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Trong vụ án này bị cáo phạm tội nhiều lần theo quy định tại Điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, tuy nhiên bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ nên mức hình phạt 03 (ba) năm tù mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là quá nghiêm khắc nên có cơ sở giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Do đó đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm - xử phạt bị cáo 12-18 tháng tù.

Bị cáo không tham gia tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Phan Hữu T làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp phúc thẩm.

[2] Căn cứ lời khai của bị cáo Phan Hữu T tại phiên tòa phúc thẩm, cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Bị cáo Phan Hữu T đã có hành vi đặt mua hàng qua mạng rồi gian dối khi thanh toán để chiếm đoạt tài sản của bị hại, bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Trong đó chiếm đoạt của ông Lê Thanh V 02 chai nước hoa hiệu Chanel; chiếm đoạt của ông Nguyễn Mạnh H 01 điện thoại Samsung S6 EDGE; chiếm đoạt của ông Trần Văn V Khang 01 điện thoại di động hiệu Sky-910L và 01 điện thoại di động hiệu LG G3 CAT 6; chiếm đoạt của bà Huỳnh Trắc Diệp Trúc L 02 đồng hồ đeo tay hiệu Daniel Wellington. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt qua định giá là 9.950.000 đồng. Do đó, bản án sơ thẩm số 33/2020/HS-ST ngày 04/5/2020 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng khoản 1 Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, xử phạt bị cáo Phan Hữu T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phan Hữu T, Hội đồng xét xử nhận thấy: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, “các bị hại đã có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo” để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt và tuyên phạt bị cáo mức án 03 (ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên, xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tài sản đã thu hồi trả lại cho các bị hại nên mức án 03 (ba) năm tù mà cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo có phần nghiêm khắc nghĩ nên giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm –chấp nhận kháng cáo và sửa bản án sơ thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Bị cáo Phan Hữu T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Hữu T và sửa bản án sơ thẩm.

Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sun năm 2009; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Phan Hữu T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 (mười triệu) đồng sung Ngân sách nhà nước.

Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Bị cáo Phan Hữu T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 352/2020/HS-PT ngày 31/07/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:352/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về