TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N - TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 352/2017/HSST NGÀY 17/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 353/2017/HSST ngày 27-10-2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 353/2017/QĐXX-HSST ngày 06 tháng 11 năm 2017, đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Phạm Mạnh H, sinh năm 1979.
Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Số 98/70 đường T, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không.
Họ và tên bố: Phạm Mạnh H, sinh năm 1953.
Họ và tên mẹ: Vũ Thị T, sinh năm 1957.
Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai.
Vợ là Phan Thị L, sinh năm 1987. Có 01 con sinh năm 2013.
Tiền án: Không.
Tiền sự: Ngày 22-9-2016 Công an phường L, thành phố N xử phạt hành chính 1.000.000 VNĐ về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Nhân thân:
- Ngày 01-02-2000 Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 12 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản công dân”;
- Ngày 20-01-2003 Tòa án nhân dân tối cao xử phúc thẩm phạt 3 năm tù về tội “Cướp tài sản”;
- Ngày 08-01-2007 Tòa án nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 3 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21-8-2017, chuyển tạm giam từ ngày 24-8-2017 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N.
2. Người bị hại: Chị Lưu Thị S, sinh năm 1992.
Địa chỉ cư trú: Đội, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Duy M, sinh năm 1978.
Địa chỉ cư trú: Số 8 phố S, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định.
Tại phiên tòa: Bị cáo Phạm Mạnh H có mặt; chị Lưu Thị S, anh Nguyễn Duy M (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ ngày 15-8-2017, Phạm Mạnh H điều khiển xe máy biển kiểm soát 29-638K6 đến cửa hàng P số 20 đường N, thành phố N để lấy điện thoại sửa. Cùng lúc đó Chị Lưu Thị S xách một chiếc túi đựng máy tính xách tay đến cửa hàng và để dưới đất cạnh quầy điện thoại gần chỗ H đứng rồi đi vào bên trong cửa hàng chọn mua ốp điện thoại. Thấy chị S không để ý đến chiếc túi xách H nảy sinh ý định trộm cắp, H xách chiếc túi để lên xe máy đi về nhà và mở túi thấy bên trong có 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo, sợi dây nguồn của máy tính và quyển sổ hộ khẩu mang tên Lưu Kim Q. Đến trưa ngày 16-8-2017, H mang chiếc máy tính đến cửa hàng M bán cho anh Nguyễn Duy M là chủ cửa hàng với giá là 2.500.000 VNĐ, số tiền trên H đã tiêu xài hết. Chị S đã có đơn trình báo vụ việc đến Công an phường N, thành phố N. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã ra lệnh bắt khẩn cấp Phạm Mạnh H.
Tại Cơ quan điều tra, Hùng đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã tiến hành thực nghiệm điều tra phù hợp với lời khai của H và các tài liệu, chứng cứ khác.
Tại bản kết luận ngày 25-8-2017, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố N kết luận chiếc máy tính xách tay hiệu Levono có giá trị là 3.100.000 VNĐ. Cơ quan điều tra đã thu hồi trả lại cho Chị Lưu Thị S chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo, sợi dây nguồn của máy tính và quyển sổ hộ khẩu mang tên Lưu Kim Q. Gia đình H đã tự nguyện trả cho anh M số tiền 2.500.000 VNĐ. Chị S, anh M đã nhận lại toàn bộ tài sản và không có đề nghị gì khác đối với H.
Bản cáo trạng số 363/QĐ-KSĐT ngày 26-10-2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố Phạm Mạnh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ Luật Hình sự 1999.
Tại phiên toà hôm nay: Bị cáo xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay nhục hình. Bị cáo khai vào chiều ngày 15-8-2017 khi vào lấy điện thoại sửa, vì lòng tham, lợi dụng sự sở hở của Chị Lưu Thị S, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo, sợi dây nguồn của máy tính và quyển sổ hộ khẩu mang tên Lưu Kim Q. Bị cáo đã đem chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo bán cho anh Nguyễn Duy M với giá 2.500.000 VNĐ (Khi bán H nói đây là máy tính của H) và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Mạnh H theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự 1999 xử phạt bị cáo từ 9 tháng tù đến 12 tháng tù giam.
Bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo cải tạo trở thành người lương thiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2003. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Mạnh H có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Đơn trình báo của người bị hại; biên bản thu giữ vật chứng; bản kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự; biên bản thực nghiệm điều tra; lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 18 giờ ngày 15-8-2017, tại cửa hàng P số 20 đường N, thành phố N, bị cáo Phạm Mạnh H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo có giá trị 3.100.000 VNĐ, sợi dây nguồn của máy tính và quyển sổ hộ khẩu mang tên Lưu Kim Q của Chị Lưu Thị S đem bán cho anh Nguyễn Duy M với giá 2.500.000 VNĐ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, tài sản bị cáo chiếm đoạt của người bị hại có giá trị trên 2.000.000 VNĐ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ nhưng vì lòng tham bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.
[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo có một tiền sự chưa hết thời hiệu, là người có nhân thân xấu nhưng không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; tài sản bị cáo trộm cắp của Chị Lưu Thị S đã được Cơ quan điều tra đã thu hồi trả lại Chị Lưu Thị S; bị cáo đã tác động để gia đình tự nguyện khắc phục hậu quả trả lại cho anh Nguyễn Duy M 2.500.000 VNĐ nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999.
[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, với mức hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.
[5] Về dân sự: Do chị Lưu Thị S và anh Nguyễn Duy M đã nhận lại toàn bộ tài sản và không có đề nghị gì khác đối với bị cáo Phạm Mạnh H nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 29-638 tạm giữ của bị cáo Phạm Mạnh H, do chưa xác minh được chủ sở hữu nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp quy định của pháp luật.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phạm Mạnh H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố Bị cáo Phạm Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm b, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999.
Xử phạt bị cáo Phạm Mạnh H 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Thời hạn tù tính từ ngày 21-8-2017.
2. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phạm Mạnh H phải nộp 200.000 VNĐ (Hai trăm nghìn đồng).
3. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 234 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo Phạm Mạnh H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Lưu Thị S và anh Nguyễn Duy M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người phải thi hành án có quyền yêu cầu, tự nguyện hoặc bị cưỡng chế theo các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 352/2017/HSST ngày 17/11/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 352/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về