TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 35/2020/HS-ST NGÀY 13/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 5 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 20/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2020; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2020/HSST-QĐ ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:
* Họ và tên: Lò Văn T (tên gọi khác: không), sinh ngày 05 tháng 6 năm 1993; tại: huyện Đ, tỉnh Đ; nơi ĐKHKTT: bản P, xã L, huyện Đ, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Thái; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn T, sinh năm 1970 và bà Lò Thị T, sinh năm 1970; vợ: Lò Thị N, sinh năm 1996; con: Lò Ngọc Đ, sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; bị bắt quả tang ngày 23/11/2019, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Móng Cái; Có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa: Bà Dương Thị Hương, là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ninh, địa chỉ: Cột 3, phường Hồng Hải, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.
* Người chứng kiến: Trần Như L; Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
*) Quá trình điều tra xác định:
Lò Văn T làm thuê bốc vác tại bến Đại Vai thuộc thôn Lục Phủ, xã Bắc Sơn, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh,sử dụng ma túy Heroine từ khoảng tháng 10/2019 và thuê trọ ở cùng các anh Vì Văn D, Vì Văn L và anh Vì Văn H. Khoảng 14 giờ ngày 23/11/2019, T cùng các anh H, L, D và một người thanh niên tỉnh Sơn La (không rõ lý lịch) cùng thuê xe taxi xuống khu vực Trung tâm y tế thành phố Móng Cái để tìm mua ma túy để sử dụng chung. Khi đến nơi, nam thanh niên người Sơn La tìm được người đàn ông bán ma túy (không rõ lý lịch) và bảo T đi theo người này. Sau đó, D đưa cho T số tiền khoảng 1.000.000đ để mua ma túy.
Người đàn ông điều khiển xe mô tô chở T đến khu vực bãi đất trống đối diện trụ sở Công ty Taxi Bắc Luân (thuộc khu Thượng Trung, phường Ninh Dương, thành phố Móng Cái). Tại đây, người đàn ông này bán cho T 02 gói ma túy với giá 500.000đ rồi bỏ đi đâu không rõ. Sau khi nhận ma túy xong, T tìm xe Taxi quay về chỗ các anh: H, L, D và nam thanh niên người Sơn La thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang. Lực lượng Công an thu giữ trong lòng bàn tay phải của T 02 gói ma túy nêu trên và số tiền 490.000đ (bốn trăm chín mươi nghìn đồng).
Tại bản Kết luận giám định số 902/GĐMT ngày 27/11/2019 của Phòng kü thuËt hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Mẫu vật thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là ma túy, loại: Heroine, khối lượng: 0,171g (không phẩy một bảy một gam).
Tại biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 16 giờ ngày 23/11/2019 thể hiện: Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 23/11/2019, tổ công tác Công an phường Trần Phú phát hiện 02 nam T niên đang trao đổi cho nhau vật gì đó ở khu vực ngã ba đường, gần cửa hàng xăng dầu số 96 thuộc phường Ninh Dương, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Sau đó, một người lên xe máy bỏ đi, người còn lại đi đến gần cửa văn phòng Taxi Bắc Luân (thuộc khu Thượng Trung, phường Ninh Dương, thành phố Móng Cái). Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra hành chính đối với người T niên này. Tại thời điểm kiểm tra người thanh niên thả 01 túi nilon nhỏ bên trong có chứa 02 gói giấy màu trắng từ trong lòng bàn tay phải xuống dưới đất và định bỏ chạy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra bên trong 02 gói giấy có chứa chất bột màu trắng ngà. Người thanh niên khai nhận tên là Lò Văn T (có lý lịch như nêu trên) và khai nhận chất bột màu trắng ngà có trong 02 gói giấy nêu trên là ma túy loại: Heroine, mua để sử dụng cho bản thân.
Quá trình điều tra, người chứng kiến anh Trần Như L khai: vào khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 23/11/2019, khi anh đang ngồi uống nước ở quán nước trước cửa Văn phòng công ty taxi Bắc Luân, thuộc khu Thượng Trung, phường Ninh Dương, thành phố Móng Cái thì được lực lượng chức năng mời chứng kiến việc kiểm tra một người đàn ông có hành vi cất giấu ma túy như nội dung Biên bản bắt người phạm tội quả tang nêu trên.
Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung vụ án nêu ở phần trên.
Tại bản cáo trạng số: 27/CT-VKS-MC, ngày 18 tháng 02 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh truy tố Lò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
*)Tại phiên tòa:
* Bị cáo có lời khai hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra.
* Trong phần tranh luận: Đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt: Lò Văn T từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt: ngày 23/11/2019.
- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
+ Tịch thu tiêu hủy: 0,04g ma túy, loại: Heroine (mẫu vật hoàn lại sau giám định), trong phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh số: 902/GĐMT;
+ Trả lại cho bị cáo Lò Văn T số tiền 490.000đ (bốn trăm chín mươi nghìn đồng).
- Liên quan trong vụ án, bị cáo khai có các đối tượng: nam thanh niên người Sơn La tìm người bán ma túy và người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được lý lịch của những người này, nên không có căn cứ để xử lý. Đối với Vì Văn D, Vì Văn L, Vì Văn H đi cùng bị cáo, quá trình điều tra xác định đều đã vắng mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra tách ra, tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau, nên không xét.
Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Lò Văn T hoàn toàn nhất trí với Luận tội của Đại diện Viện kiểm sát. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình của Lò Văn T là người dân tộc Thái, nhận biết về pháp luật còn hạn chế.
* Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Móng Cái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về những chứng cứ xác định bị cáo có tội, về tính chất, mức độ hành vi phạm tội:
Xét lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người chứng kiến, Biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 23/11/2019, tại khu vực cửa hàng xăng dầu số 96 thuộc phường Ninh Dương, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, Lò Văn T có hành vi cất giấu trái phép 0,171g ma túy, loại Heroine để sử dụng cho bản thân.
Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý, xâm phạm đến chế độ của Nhà nước về quản lý các chất ma túy.
Do đó, hành vi như nêu trên của Lò Văn T đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh truy tố Lò Văn T là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:...
c) Heroine …có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”… Bị cáo nhận thức rõ về tác hại của ma túy và quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Tuy nhiên, do lối sống buông thả, thiếu ý thức chấp hành pháp luật bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Hành vi của bị cáo đã góp phần làm cho tệ nạn nghiện chất ma túy gia tăng, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó, thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, mới có tác dụng giáo dục và phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền. Tuy nhiên, xét bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng:
+ 0,04g ma túy, loại: Heroine (mẫu vật hoàn lại sau giám định), trong phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh số: 902/GĐMT, là loại nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy.
+ Số tiền 490.000đ là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.
[7] Về lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát: Xét những chứng cứ mà Kiểm sát viên dùng để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo đã được cơ quan điều tra thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng Hình sự quy định; Tại phiên tòa bị cáo cũng đã thừa nhận thực hiện hành vi như bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Nên lời buộc tội của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Lò Văn T là người dân tộc thiểu số, cư trú tại địa bàn xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc khu vực III, khu vực II, khu vực I theo Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Tại phiên tòa, bị cáo đề nghị được miễn án phí. Do đó, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xét miễn án phí đối với bị cáo.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[10] Liên quan trong vụ án: bị cáo khai có các đối tượng: nam thanh niên người Sơn La tìm người bán ma túy và người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được lý lịch của những người này, nên không có căn cứ để xử lý. Đối với Vì Văn D, Vì Văn L, Vì Văn H đi cùng bị cáo, quá trình điều tra xác định đều đã vắng mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra tách ra, tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau, nên không xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về áp dụng pháp luật:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; Khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
2. Về tội danh và hình phạt:
* Tuyên bố: Lò Văn T (tên gọi khác: Không) Phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Lò Văn T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt: ngày 23/11/2019.
3. Về xử lý vật chứng:
+ Tịch thu, tiêu hủy: 0,04g ma túy, loại: Heroine (mẫu vật hoàn lại sau giám định), trong phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh số: 902/GĐMT.
+ Trả lại cho bị cáo: số tiền 490.000đ (bốn trăm chín mươi nghìn đồng).
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng số 51/2020/THA ngày 20/02/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh).
4. Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lò Văn T được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lò Văn T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 35/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 35/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về