Bản án 35/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 35/2019/HS-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2019/TLST-HS, ngày 12 tháng 9 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2019/QĐXXST-HS, ngày 17 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành H, sinh năm: 1983, tại: Vĩnh Long; Nơi cư trú: Tổ ..., ấp T H, xã T B, Huyện B T, tỉnh Vĩnh Long; Nghề nghiệp: Làm Thuê; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu Tvà bà Nguyễn Thị Huỳnh N; Tiền án, Tiền sự: Không; Không bị bắt tạm giữ, tạm giam; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi trú và hiện đang tại ngoại tại Tổ ..., ấp T H, xã T B, Huyện B T, tỉnh Vĩnh Long (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Nguyễn Văn B, sinh năm: 1965 (đã chết)

Nơi cư trú: Tổ..., ấp T Y, xã T T, Huyện B T, tỉnh Vĩnh Long.

- Người đại diện hợp pháp cho của bị hại Nguyễn Văn B:

1. Trần Thị Bé N, sinh năm: 1965 (vợ bị hại); (có mặt).

2. Nguyễn Văn H, sinh năm: 1986 (con ruột bị hại); (có mặt).

3. Nguyễn Văn T, sinh năm: 1988 (con ruột bị hại)

Cùng nơi cư trú: Tổ..., ấp T Y, xã T T, Huyện B T, tỉnh Vĩnh Long.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Bé N và anh Nguyễn Văn T là anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1986; Nơi cư trú: Tổ..., ấp T Y, xã T T, Huyện B T, tỉnh Vĩnh Long, (theo giấy ủy quyền ngày 16/4/2019). (có mặt)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Trần Thị Bé N, sinh năm: 1965 (có mặt)

Nơi cư trú: Tổ..., ấp T Y, xã T T, Huyện B T, tỉnh Vĩnh Long.

Bà Trần Thị Bé N ủy quyền cho anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1986;

Nơi cư trú: Tổ..., ấp T Y, xã T T, Huyện B T, tỉnh Vĩnh Long, (theo giấy ủy quyền ngày 16/4/2019). (có mặt).

2. Trần Văn M, sinh năm: 1985, (có mặt).

Nơi cư trú: ấp Đ H 1, xã Đ T, thị xã B M, tỉnh Vĩnh Long.

- Người làm chứng:

1. Lê Hoàng P, sinh năm: 1985 (vắng mặt).

Nơi cư trú: ấp T L, xã P H, Huyện L Vg, tỉnh Đồng Tháp.

2. Ngô Văn U, sinh năm: 1982 (vắng mặt).

Nơi cư trú: ấp T B, xã P H, Huyện L V, tỉnh Đồng Tháp.

3. Phạm Văn H, sinh năm: 1972 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ ..., ấp T H, xã T B, Huyện B T, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 24/02/2019 Nguyễn Thành H đến nhà của Phạm Văn H ở Tổ ..., ấp T H, xã T B, Huyện B T, tỉnh Vĩnh Long để uống rượu. Đến khoảng 12 giờ 00 phút H điều khiển xe mô tô biển số 64H3-9108 chở Hg về nhà mẹ ruột của Hg ở ấp Định Phú, xã Định Hòa, Huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Khoảng 14 giờ H điều khiển xe mô tô biển số 64H3-9108 (xe H mua của Trần Văn M chưa làm thủ tục sang tên) về lại tỉnh Vĩnh Long, H không có giấy phép lái xe theo quy định pháp luật, chạy từ xã Định Hòa, Huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp về nhà của H. Trên đường về đến địa phận Km 28 + 100 thuộc ấp T B, xã P H, Huyện L V, tỉnh Đồng Tháp do trong người đã uống rượu nên H không làm chủ được tay lái điều khiển xe lấn sang phần đường bên trái hướng đi va chạm vào ống phuộc trước bên phải xe mô tô biển số 64K1-028.19 do ông Nguyễn Văn B điều khiển chạy ngược chiều với xe của H, chở vợ là bà Trần Thị Bé N ngồi phía sau (xe 64K1-028.19 của anh Nguyễn Văn H, con ông B đứng tên chủ sở hữu). Tai nạn xảy ra làm 02 xe và người bị ngã xuống đường, ông B và bà N bị thương nặng được người dân đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Sa Đéc, sau đó ông B tử vong.

Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường lập lúc 14 giờ 35 phút ngày 24/02/2019 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Huyện Lai Vung thể hiện như sau:

Hiện trường nơi xảy ra tai nạn là tại Km 28 + 100 Quốc lộ 54, thuộc ấp T B, xã P H, Huyện L V, tỉnh Đồng Tháp. Nơi xảy ra vụ tai nạn là đoạn đường thẳng, không bị che khuất tầm nhìn, mặt đường được trải nhựa phẳng rộng 9,0m, có vạch kẻ màu vàng đứt quãng phân chia hai dòng phương tiện ngược chiều nhau, bên phải hướng đi từ Phong Hòa về Tân Thành có biển báo nguy hiểm đường cong.

Lấy trụ điện 485SH/38 làm điểm mốc trong vụ tai nạn giao thông, từ tâm trục bánh xe sau của xe mô tô biển số 64K1-028.19 ký hiệu số (1) đến trụ điện 485SH/38 có khoảng cách 30,10m. Tất cả các số đo được tính bằng mét và được kéo về một bên lề chuẩn bên phải theo hướng đi từ xã Phong Hòa về xã Tân Thành, Huyện Lai Vung.

Ký hiệu (X): Là tâm vùng va chạm đo vào lề chuẩn có khoảng cách 1,30m, từ tâm vùng va chạm đến tâm trục trước bánh xe biển số 64K1-028.19 ký hiệu (1) có khoảng cách 0,30m, đến tâm trục sau bánh xe môtô biển số 64H3-9108 ký hiệu (2) có khoảng cách 0,50m.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Lai Vung tiến hành tạm giữ và khám nghiệm phương tiện 02 xe mô tô nêu trên như sau:

- Xe mô tô biển số 64K1-028.19, số máy 189A017966, số khung S9A0BY017954, nhãn hiệu YAMAHA, màu sơn xanh - trắng, số loại EXCITER, dung tích xi lanh 134cm3. Gương chiếu hậu bên trái bị sứt mất; mặt nạ trước đầu xe bể sứt mất; chụp mũ trước đầu xe bị bể và hở; đồng hồ báo tốc độ xe bị bể kiếng; đèn chiếu sáng và đèn tín hiệu bên trái, bên phải bể hoàn toàn; cánh bững bên phải bể hoàn toàn; ống phuộc trước bên phải cong theo hướng từ trước ra sau; vè trước bể hoàn toàn; vành xe trước mặt ngoài bên phải bị thụng vào 05cm cách chữ ROTATION trên vỏ xe 10cm; vỏ xe bị rách mặt ngoài bên phải ngay sau chữ ROTATION và bị xẹp; thanh gác chân trước bên phải cong về sau.

- Xe mô tô biển số 64H3-9108, số máy: VDP1P52FMH-638391, số khung 6MM-71638391, nhãn hiệu WAYEC, màu đen - xám, loại xe nữ, dung tích xi lanh 107cm3 tên chủ xe Trần Văn M. Gương chiếu hậu bên trái, bên phải bị sứt mất; ốp mũ trước và sau đầu xe bị bể hoàn toàn; đồng hồ báo tốc độ xe bể và sức rời; đèn chiếu sáng phía trước và đèn tín hiệu bên trái, bên phải bể hoàn toàn; mặt nạ trước đầu xe bể hoàn toàn; vè trước bể sứt mất; cánh bửng bên phải bể sứt mất; cánh bửng bên trái bị nứt phần đuôi; ốp phuộc trước bên phải cong vào trong theo hướng từ trước ra sau; vành xe bị cong thụng và gãy căm; nắp máy bên phải bị bể; gác chân trước bên phải cong về sau mất thun; thắng chân cong về sau; ốp mũ hông xe bên trái ở giữa bị bể mất.

Ngày 19/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Lai Vung đã trả lại cho Nguyễn Văn H 01 xe mô tô biển số 64K1-028.19, số máy 189A017966, số khung S9A0BY017954, nhãn hiệu YAMAHA, màu sơn xanh - trắng, số loại EXCITER, dung tích xi lanh 134cm3.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 71/TTh/TTPY ngày 24/02/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Tháp kết luận nguyên nhân chết của ông Nguyễn Văn B là do chấn thương ngực nặng làm gãy xương sườn số II, III đâm vào phổi gây xuất Hết phổi do tai nạn giao thông.

Kết luận định giá tài sản số 60/KL-ĐGTS ngày 23/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự kết luận giá trị thiệt hại xe mô tô biển số 64K1-028.19 là 4.407.250 đồng; giá trị thiệt hại xe mô tô biển số 64H3-9108 là 1.368.000 đồng.

Kết luận giám định số 183/KL-KTHS ngày 06/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận: Mẫu máu chứa trong ống nghiệm, ghi thu của Nguyễn Văn B, sinh năm: 1965, được thu giữ và niêm phong từ lúc 16 giờ 40 phút đến 16 giờ 55 phút ngày 24/02/2019 tại bệnh viện Đa khoa Sa Đéc, tại thời điểm giám định ngày 26/02/2019 không phát hiện thành phần cồn (Ethanol).

Kết luận giám định số 184/KL-KTHS ngày 06/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận: Mẫu máu chứa trong ống nghiệm, ghi thu của Nguyễn Thành H, sinh năm: 1983, được thu giữ và niêm phong từ lúc 15 giờ 05 phút đến 15 giờ 20 phút ngày 24/02/2019 tại bệnh viện Đa khoa Sa Đéc, tại thời điểm giám định ngày 26/02/2019 có chứa thành phần cồn (Ethanol) nồng độ 301,4mg/100ml máu.

Tại bản cáo trạng số 36/CT-VKS, ngày 10/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Lai Vung, đã truy tố Nguyễn Thành H ra trước Toà án nhân dân Huyện Lai Vung, để xét xử về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Nguyễn Thành H khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Lai Vung truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

- Đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Văn B, cũng là đại diện theo ủy quyền của đại diện hợp pháp của bị hại là anh Nguyễn Văn H trình bày: Anh H là con của bị hại Nguyễn Văn B việc ông B bị tai nạn và tử vong đúng như nội dung cáo trạng. Anh Nguyễn Văn H với bị cáo Nguyễn Thành H thống nhất thỏa thuận bồi thường toàn bộ chi phí gồm: Chi phí mai táng, tiền xe, tiền điều trị thương tích và tiền tổn thất tinh thần tổng cộng là 80.000.000 đồng. Anh Nguyễn Văn H đã nhận số tiền bồi thường 5.000.000 đồng từ bị cáo, Anh H yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền còn lại theo như thỏa thuận là 75.000.000 đồng cho anh Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn T và bà Trần Thị Bé N. Ngoài ra không trình bày hay yêu cầu gì thêm khác.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trần Văn M trình bày: Xe mô tô biển số 64H3-9108 là anh M đã bán cho Nguyễn Thành H nhưng chưa làm thủ tục sang tên, anh M đã nhận đủ tiền, đã giao xe, giấy tờ xe cho H. Anh M không có yêu cầu gì trong vụ án này và không trình bày gì thêm.

- Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên Tòa, Kiểm sát viên khẳng định việc truy tố trên là đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Nguyễn Thành H đã có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 64H3-9108, bị cáo không có giấy phép lái xe theo quy định khi tham gia giao thông, trong người có nồng độ cồn vượt mức cho phép, chạy lấn sang phần đường bên trái hướng đi va chạm vào ống phuộc trước bên phải xe mô tô biển số 64K1-028.19 do ông Nguyễn Văn B điều khiển chở bà Trần Thị Bé N chạy ngược chiều gây ra tai nạn làm cho ông Nguyễn Văn B tử vong. Hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định tại khoản 8, khoản 9 Điều 8 của Luật Giao thông đường bộ, gây hậu quả nghiêm trọng xâm phạm tính mạng của bị hại. Khi thực hiện hành vi bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt Nguyễn Thành H từ 02 đến 03 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 591 Bộ luật dân sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc bị cáo Nguyễn Thành H tiếp tục bồi thường cho anh Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn T và bà Trần Thị Bé N số tiền 75.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: Tiếp tục giao xe mô tô biển số 64H3- 9108, số máy: VDP1P52FMH-638391, số khung 6MM-71638391, nhãn hiệu WAYEC, màu sơn Đen - xám, loại xe nữ, dung tích xi lanh 107cm3, tên chủ xe Trần Văn M, tình trạng xe đã qua sử dụng và 01 Bản chính Giấy đăng ký Mô tô, xe máy số 021400, biển số 64H3-9108, tên chủ xe Trần Văn M, Công an tỉnh Vĩnh Long cấp ngày 9/10/2007, cho Chi cục thi hành án dân sự Huyện Lai Vung quản lý để đảm bảo thi hành án (Vật chứng trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự Huyện Lai Vung đang quản lý). Về án phí, đề nghị Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Thành H thống nhất với Bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Lai Vung, không tranh luận gì. Bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên của Huyện Lai Vung trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự quy định.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

Tại phiên tòa người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do. Tuy nhiên trong quá trình điều tra người làm chứng đã khai đầy đủ, rõ ràng. Đồng thời tại phiên tòa Kiểm sát viên, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị xét xử vắng mặt người làm chứng. Xét thấy sự vắng mặt của những người làm chứng không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án. Do đó, căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vắng mặt những người làm chứng.

[2] Về hành vi của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Thành H đã có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 64H3-9108 nhưng không có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định, khi điều khiển xe trong người có nồng độ cồn vượt mức cho phép là 301,4mg/100ml, không làm chủ tay lái chạy lấn sang phần đường bên trái hướng đi va chạm vào ống phuộc trước bên phải xe mô tô biển số 64K1-028.19 do ông Nguyễn Văn B điều khiển chở bà Trần Thị Bé N chạy ngược chiều gây ra tai nạn làm cho ông Nguyễn Văn B tử vong, bà Bé N bị thương nhưng có đơn từ chối giám định tỉ lệ tổn thương cơ thể. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thành H là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng, tài sản của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn giao thông đường bộ ở địa phương.

Lời nhận tội của bị cáo là phù hợp tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường vụ án, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác được thể hiện trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Lai Vung đã truy tố và viện dẫn. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Thành H, đã vi phạm quy định tại khoản 8, khoản 9 Điều 8 của Luật Giao thông đường bộ, gây hậu quả nghiêm trọng xâm phạm tính mạng của bị hại, thiệt hại tài sản của người khác, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại điểm a khoản 1 và điểm a, b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

……………………………

2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định ……………….”

[3] Về tính chất, mức độ tội phạm: Hành vi của bị cáo Nguyễn Thành H là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng của người khác một cách trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự, an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn Huyện. Bị cáo biết rõ khi tham gia giao thông không có giấy phép lái xe theo quy định và trong người có nồng độ cồn vượt mức cho phép, chạy lấn sang phần đường bên trái hướng đi là vi phạm luật giao thông đường bộ, nhưng do chủ quan mà bị cáo Nguyễn Thành H đã gây ra tai nạn giao thông, làm cho ông Nguyễn Văn B tử vong, với hậu quả rất nghiêm trọng như trên, nên việc đưa bị cáo ra xét xử công khai như ngày hôm nay là cần thiết, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, nhằm mục đích giáo dục phòng ngừa chung trong xã hội. Xét tính chất, mức độ, ý thức và hậu quả phạm tội của bị cáo, khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, vì vậy cần phải có một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm mục đích răn đe, giáo dục phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Nguyễn Thành H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo Nguyễn Thành H có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xét xử dưới khung hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Trả cho bị cáo xe mô tô biển số 64H3-9108, số máy: VDP1P52FMH-638391, số khung 6MM-71638391, nhãn hiệu WAYEC, màu sơn Đen - xám, loại xe nữ, dung tích xi lanh 107cm3, tên chủ xe Trần Văn M, tình trạng xe đã qua sử dụng và 01 Bản chính Giấy đăng ký Mô tô, xe máy số 021400, biển số 64H3-9108, tên chủ xe Trần Văn M, Công an tỉnh Vĩnh Long cấp ngày 9/10/2007, cho Chi cục thi hành án dân sự Huyện Lai Vung quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự Huyện Lai Vung đang quản lý).

[6] Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Văn H đại diện hợp pháp của bị hại, cũng là đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Bé N và Nguyễn Văn T với bị cáo Nguyễn Thành H thống nhất thỏa thuận bồi thường toàn bộ chi phí gồm: Chi phí mai táng, tiền xe, tiền điều trị thương tích và tiền tổn thất tinh thần tổng cộng là 80.000.000 đồng. Đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận số tiền bồi thường 5.000.000 đồng từ bị cáo H. Nay anh Nguyễn Văn H đại diện hợp pháp của bị hại, cũng là đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Bé N và Nguyễn Văn T yêu cầu bị cáo H tiếp tục bồi thường theo như thỏa thuận số tiền còn lại là 75.000.000 đồng cho anh Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn T và bà Trần Thị Bé N. Xét sự thỏa thuận này là hoàn toàn tự nguyện, đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận này là phù hợp quy định pháp luật.

[8] Kiểm sát viên đề nghị giải quyết nội dung vụ án về mức hình phạt cũng như tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo là đúng quy định pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên về phần bồi thường dân sự Kiểm sát viên đề nghị buộc bị cáo bồi thường cho cho anh Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn T và bà Trần Thị Bé N số tiền 75.000.000 đồng là chưa đúng quy định pháp luật, vì bị cáo và anh Nguyễn Văn H đã thỏa thuận với nhau về số tiền bồi thường nên cần công nhận sự thỏa thuận này là phù hợp quy định pháp luật; ngoài ra về xử lý vật chứng Kiểm sát viên đề nghị tiếp tục giao xe mô tô biển số 64H3-9108 và 01 Bản chính Giấy đăng ký Mô tô, xe máy số 021400, biển số 64H3-9108, tên chủ xe Trần Văn M, Công an tỉnh Vĩnh Long cấp ngày 9/10/2007 cho Chi cục thi hành án dân sự Huyện Lai Vung quản lý để đảm bảo thi hành án là không đúng quy định pháp luật nên trả lại xe mô tô biển số 64H3-9108 cho bị cáo nhưng tiếp tục giao cho Chi cục thi hành án dân sự Huyện Lai Vung quản lý để đảm bảo thi hành án.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[10] Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành H - 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

2. Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:

Trả cho bị cáo xe mô tô biển số 64H3-9108, số máy: VDP1P52FMH-638391, số khung 6MM-71638391, nhãn hiệu WAYEC, màu sơn Đen - xám, loại xe nữ, dung tích xi lanh 107cm3, tên chủ xe Trần Văn M, tình trạng xe đã qua sử dụng và 01 Bản chính Giấy đăng ký Mô tô, xe máy số 021400, biển số 64H3-9108, tên chủ xe Trần Văn M, Công an tỉnh Vĩnh Long cấp ngày 9/10/2007 nhưng tiếp tục giao cho Chi cục thi hành án dân sự Huyện Lai Vung quản lý để đảm bảo thi hành án (Vật chứng trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự Huyện Lai Vung đang quản lý).

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 590, Điều 591 Bộ luật dân sự 2015:

Công nhận sự thỏa thuận của bị cáo Nguyễn Thành H bồi thường số tiền 75.000.000 đồng (bảy mươi lăm triệu đồng) cho anh Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn T và bà Trần Thị Bé N.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án mà bên phải thi hành án chưa thi hành xong, thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi bằng 50% mức lãi suất theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án, đến khi thi hành án xong.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thành H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 3.750.000 đồng (ba triệu, bảy trăm, năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 10/10/2019.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

322
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:35/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về