Bản án 35/2019/HS-PT ngày 21/01/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 35/2019/HS-PT NGÀY 21/01/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 561/2018/HSPT ngày 17/12/2018 đối với bị cáo Phan Minh T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 200/2018/HSST ngày 08/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo: Phan Minh T sinh ngày 16 tháng 11 năm 1990 tại tỉnh Tiền Giang; Nơi cư trú: Ấp 6, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: Khi phạm tội là nhân viên công ty dịch vụ bảo vệ B; trình độ học vấn lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn Tr và bà Dương Thị L; tiền sự, tiền án: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 27/6/2018; (Có mặt).

Người bị hại không kháng cáo, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ ngày 24/6/2018, bà Trần Thị Kim L đã đến Công an Phường H, quận T trình báo sự việc bị mất xe gắn máy nhãn hiệu Honda Airblade, biển số 92F1-155.96 mà bà L đã để tại quán cà phê Phố Xa, địa chỉ 81 Bàu Cát 3, Phường H, quận T và giao nộp lại 01 ổ cứng (USB) ghi hình ảnh Võ Minh T là nhân viên bảo vệ của Công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ bảo vệ B (sau đây gọi tắt là Công ty B), địa chỉ 119 Đường N, Phường 10, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh đã có hành vi dẫn chiếc xe trên của bà L ra khỏi quán.

Bằng phương pháp nghiệp vụ cơ quan điều tra đã phát hiện Võ Minh T (có họ tên thật là Phan Minh T) là nhân viên bảo vệ của Công ty B, đã chiếm đoạt chiếc xe trên.

Kết quả xác minh tại Công an Phường 4, thành phố M, tỉnh Tiền Giang xác định: Giấy chứng minh nhân dân số 312.019.263 cấp cho đương sự Võ Minh T sinh năm 1990; giới tính: Nữ; đăng ký hộ khẩu thường trú 394/19 Trần Hưng, Phường F, thành phố M, tỉnh Tiền Giang, hiện không có mặt tại địa phương.

Quá trình điều tra thể hiện:

Phan Minh T khai: T có họ tên trong lý lịch là Phan Minh T sinh ngày 16 tháng 11 năm 1990 tại tỉnh Tiền Giang; Nơi cư trú: Ấp 6, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang, có giấy chứng minh nhân dân số 312.100.939 do Công an tỉnh Tiền Giang cấp ngày 20/10/2012, T đã làm mất vào thời điểm tháng 7/2017. Tháng 5/2018, T đi từ tỉnh Tiền Giang đến Thành phố Hồ Chí Minh để xin việc làm, trên đường đi T nhặt được 01 giấy chứng minh nhân dân số 312019263 của Công an tỉnh Tiền Giang cấp cho Võ Minh T, nơi cư trú 394/19 Trần Hưng, Phường 4, thành phố M, tỉnh Tiền Giang, T cất giữ trong người. Ngày 23/6/2018, T đến tiệm ảnh trên đường Phan Văn, Quận K, chụp ảnh có kích thước 3 x 4 rồi T tự thay ảnh của mình vào giấy chứng minh nhân dân mang tên Võ Minh T và đưa cho người ép platic dạo trên đường ép nhựa trong bên ngoài giấy chứng minh này. Sau đó, T đến Công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ và tư vấn TT (sau đây gọi tắt là Công ty TT), địa chỉ 53/5 vòng xoay A, Quốc lộ M, ấp Đ, xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, sử dụng giấy chứng minh này đăng ký xin việc làm. Ngày 23/6/2018 T được Công ty TT giới thiệu đến làm việc cho Công ty B.

Ngày 24/6/2018, T được giao nhiệm vụ bảo vệ, giữ xe tại quán cà phê Phố Xa số 81 Bàu Cát 3, Phường H, quận T.

Vào lúc 20 giờ 30 phút cùng ngày, T trong lúc sắp xếp các xe gắn máy lại theo đúng quy định thì nhìn thấy xe gắn máy nhãn hiệu Honda Airblade, biển số 92F1-155.96 của bà Trần Thị Kim L (là nhân viên quản lý quán cà phê Phố Xa), để xe tại bãi giữ xe của quán, chìa khóa còn để trong ổ khóa công tắc. T nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe của bà L bán lấy tiền tiêu xài, T dẫn xe của bà L ra khỏi quán, khởi động máy xe bỏ trốn đến giao lộ đường Trường Chinh – Phan Huy Ích, T dừng xe, mở khóa yên xe lục tìm giấy tờ xe nhằm mục đích bán cho người khác nhưng không thấy. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 26/6/2018, T đang điều khiển xe gắn máy của bà L đi tìm việc làm tại khu vực gần cầu vượt An Sương thì bị nhân viên của Công ty B phát hiện bắt giữ được T cùng vật chứng giao Công an Phường H, quận T xử lý.

Người bị hại Trần Thị Kim L khai: Bà L đến quán cà phê Phố Xa để làm việc, khi đến quán bà để chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda Airblade, biển số 92F1-155.96 vào khu vực giữ xe của quán rồi vào làm việc, một lúc sau bà ra lấy chìa khóa xe thì không còn thấy xe, bà L xem lại lịch sử camera của quán thì thấy người bảo vệ quán (Phan Minh T) là người dẫn xe của bà ra khỏi quán chạy đi nhưng không thấy quay lại. Bà L mua chiếc xe gắn máy trên vào thời điểm năm 2014 với trị giá 42.000.000 đồng, bà L yêu cầu được nhận lại chiếc xe trên.

Bà Vi Kim Ch là Giám đốc Công ty B khai: Vào ngày 23/6/2018, Công ty TT có giới thiệu đến công ty một người thanh niên tên Võ Minh T vào Công ty B làm việc (sau này mới biết tên thật là Phan Minh T), bà Chi đã nhận T vào làm thử việc nhưng chưa ký hợp đồng. Ngày 24/6/2018, bà Chi có phân công T và cho nhân viên của công ty chở T đến quán cà phê Phố Xa làm việc theo hợp đồng dịch vụ bảo vệ và giữ xe. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, bà Chi nhận được tin T đã chiếm đoạt chiếc xe gắn máy rồi bỏ trốn, bà Chi đã phân công nhân viên của công ty đi đến các công ty dịch vụ giới thiệu việc làm tại địa bàn Quận 12 và kết quả các nhân viên của công ty đã phát hiện, bắt giữ T và giao cho Công an Phường H, quận T xử lý.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Minh T khai: Bà Tâm được Công an tỉnh Tiền Giang cấp Giấy chứng minh số 312.019.263 từ ngày 30/6/2004, bà Tâm sử dụng đến tháng 6/2018 thì bị mất tại địa bàn Phường 27, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, bà Tâm có trình báo cho Công an Phường 27, quận Bình Thạnh. Ngày 14/7/2018, bà Tâm đã được Công an tỉnh Tiền Giang cấp lại Giấy chứng minh số 312.019.263 và bà Tâm vẫn sử dụng cho đến nay.

Kết quả định giá tài sản số 203 ngày 21/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận T ghi kết luận:

* Xe gắn máy 02 bánh hiệu Honda Airblade, biển số 92F1-155.96 (Việt Nam), số máy JF46E-0140596, số khung 4607DY116336, dung tích xi lanh 124cc, đăng bộ tháng 1/2014. Xe đã qua sử dụng, máy còn nguyên thủy, chất lượng máy còn lại khoảng 55%. Tài sản trên ngay tại thời điểm định giá tháng 6/2018 là 32.000.000 đồng.

Kết quả điều tra xác định: Phan Minh T sau khi nhận được tài sản chiếc xe gắn máy hiệu Honda Airblade, biển số 92F1-155.96 có giá trị 32.000.000 đồng của bà Trần Thị Kim L là nhân viên của quán cà phê Phố Xa gửi cho T giữ, T đã chiếm đoạt rồi bỏ trốn với ý thức không trả lại mà bán đi để có tiền tiêu xài.

Đối với hành vi thay ảnh của T vào giấy chứng minh mang tên Võ Minh T với mục đích xin việc làm chứ không sử dụng giấy chứng minh này để thực hiện hành vi trái pháp luật nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Tội sửa chữa và sử dụng giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức” quy định tại Điều 340 Bộ luật hình sự, Cơ quan điều tra Công an quận T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này.

Sau sự việc, Cơ quan điều tra Công an quận T đã trả lại cho bà Trần Thị Kim L chiếc xe gắn máy 02 bánh hiệu Honda Airblade, biển số 92F1-155.96, bà L không yêu cầu gì về dân sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 104/2018/HSST ngày 08/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Phan Minh T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phan Minh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2018.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 14/11/2018 bị cáo Phan Minh T làm đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phan Minh T khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nhận định án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét kháng cáo của bị cáo T, đại diện Viện Kiểm sát cấp phúc thẩm xét thấy tại phiên tòa hôm nay bị cáo không đưa ra tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới nào. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hình thức đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

Vào lúc 20 giờ 30 phút cùng ngày, T trong lúc sắp xếp các xe gắn máy lại theo đúng quy định thì nhìn thấy xe gắn máy nhãn hiệu Honda Airblade, biển số 92F1-155.96 của bà Trần Thị Kim L (là nhân viên quản lý quán cà phê Phố Xa), để xe tại bãi giữ xe của quán, chìa khóa còn để trong ổ khóa công tắc. T nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe của bà L bán lấy tiền tiêu xài, T dẫn xe của bà L ra khỏi quán, khởi động máy xe bỏ trốn đến giao lộ đường Trường Chinh – Phan Huy Ích, T dừng xe, mở khóa yên xe lục tìm giấy tờ xe nhằm mục đích bán cho người khác nhưng không thấy. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 26/6/2018, T đang điều khiển xe gắn máy của bà L đi tìm việc làm tại khu vực gần cầu vượt An Sương thì bị nhân viên của Công ty B phát hiện bắt giữ được T cùng vật chứng giao Công an Phường H, quận T xử lý.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã xử, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Với hành vi nêu trên, Tòa cấp sơ thẩm đã tuyên bố và xét xử bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội, không oan sai và phù hợp với quy định pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác và trật tự an toàn xã hội. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử phạt nghiêm minh với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Đồng thời, cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là đã xem xét, cân nhắc, khoan hồng cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không đưa ra tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới nào và mức hình phạt là không nặng, do đó không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, sự.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình Không chấp nhận kháng cáo của Phan Minh T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố Phan Minh T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Phan Minh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2018.

Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc: Bị cáo Phan Minh T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HS-PT ngày 21/01/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:35/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về